Những Bài Tình Ca Vấn Vương Một Thời
Lê Tất Đạt
……………..
Nhạc Việt Nam đến với tôi đầu tiên là bản Quốc ca. Tôi yêu bài hát ấy. Tôi là một thằng bé ngỗ nghịch nhưng mỗi buổi sáng chào cờ nghe bài Quốc ca lòng tôi bỗng dạt dào và tự nhiên đứng nghiêm chỉnh không nhúc nhích. Đó là một câu trong bài luận văn tôi viết năm lớp nhì và được mang ra đọc trong buổi chào cờ trước toàn trường tiểu học Phú Mỹ. Một vinh dự! Ngoài bài quốc ca, bản đầu tiên gây ấn tượng sâu xa và tích tụ trong hồn tôi đó là bản Ngựa Phi Đường Xa của Lê Yên qua tiếng hát của ban hợp ca Thăng Long trình diễn tại Hội Quán Quản Tri gần đầu đường Hàng Bè trước ngày chia cắt đất nước. Ngày đó ca sĩ Hoài Trung làm ngựa hý nghe mê chết luôn vì ông này mặt dài như mặt ngựa. Và tôi cũng mê Thái Thanh từ dạo ấy. Đúng ra tôi mê sản phẩm Bắc hà từ dạo ấy. Nhà tôi bên cạnh một gia đình người Bắc di cư trước 1950. Anh Phạm Quang Ngọc là người lớn hơn tôi chừng vài tuổi, học Nguyễn Du là một người có tài, dưới mắt tôi ngày đó. Làm thơ, đặt nhạc, kể chuyện ciné như thật. Chính anh là người đem văn hoá Bắc hà đến với tôi. Chính anh giải thích cho tôi bản Tình Tự Tin của Phạm Duy chính là Tình yêu, Tự do và Tin tưởng. Chính anh cho tôi chép lại các tập thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Quang Dũng, TTKH, Huy Cận, Chế Lan Viên mà mỗi trang đầu tập thơ anh viết cẩn trọng hàng chữ giở cho khéo kẻo lòng tôi động vỡ mà anh sưu tập. Tôi không biết anh có phải là tác giả câu này không nhưng hồi đó bạn bè anh, một đám Bắc kỳ vẫn thường xuyên tụ tập đàn địch, ngâm thơ và nói chuyện ciné nghe thích lắm. Ở lớp đệ thất đệ lục mà có một ông bạn tài hoa như thế thì cũng hãnh diện lắm chứ phải chơi.Và cũng chính anh, ngày bỏ Huế vào Saigon đã ký tặng tôi tập thơ do anh sáng tác lúc đi học hè Bồ Đề tôi đem ra khoe với Phạm Lương Cơ mà hắn không tin . Anh mê ban Thăng Long, ban Tiếng Tơ Đồng, Mộc Lan, Châu Hà, Kim Tước thì tôi cũng mê theo thôi. Quê chưa, nhưng không sao, nghe riết rồi minh cũng giền luôn mà bỏ quên sản phẩm nhà …Hà Thanh. Tôi cũng chẳng nhớ rõ giữa thập niên 50 đã có sự hiện diện của ca sĩ Hà Thanh chưa vì thuở đó ca sĩ Bắc hà nhiều quá, ngoài những khuôn mặt nói trên còn có ban hợp ca Hạc Thành với Thể Tần, Hồng Hảo, Nhật Bằng và Nhật Ngân, khánh Ngọc. Nam ca sĩ thời đó có Anh Ngọc, Cao Thái.
Nhạc Việt có nhiều bản tuyệt vời lắm chứ.Tôi thích hầu hết các bài ca thời tiền chiến. Trung kỳ (Huế) thì có Nguyễn Văn Thương với Đêm Đông, La Hối (Hội An) với Xuân và Tuổi Trẻ, Phan Huỳnh Điểu (Quảng Nam) với Mùa Đông Binh Sĩ . Nam Kỳ thì có Anh Việt Trần Văn Trọng với Bến Cũ. Bắc Kỳ thì có Văn Cao với Suối Mơ, Buồn Tàn Thu, Thiên Thai; Đặng Thế Phong với Con Thuyền Không Bến; Phạm Duy với Tình Hoài Hương:
Quê hương tôi, có con sông đào xinh xắn
Nước tuôn trên đồng ruộng vắn
Lúa thơm cho đủ hai mùa
Dân trong làng trời về khuya vẳng tiếng lúa đê mê.
Quê hương tôi có con đê dài ngây ngất
Lúc tan chợ chiều xa tắp
Bóng nâu trên đường bước dồn
Lửa bếp nồng, vòm tre non, làn khói ấm hương thôn!
Ai về, về có nhớ, nhớ cô mình chăng?
Tôi về, về tôi nhớ hàm răng cô mình cười ơ ơ ớ!
Ai về mua lấy miệng cười
Để riêng tôi mua lại mảnh đời, thơ ngây thơ ơ ớ ơ ơ ờ!
Quê hương ơi! Bóng đa ôm đàn em bé
Nắng trưa im lìm trong lá
Những con trâu lành trên đồi
Nằm mộng gì? Chờ nghe tôi thổi khúc sáo chơi vơi.
Quê hương ơi! Tóc sương mẹ già yêu dấu
Tiếng ru nỗi niềm thơ ấu
Cánh tay êm tựa mái đầu
Ôi bóng hình từ bao lâu còn ghi mãi sắc mầu!
………
(Saigon 1952)
Chung Quân với Làng Tôi :
Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lờ lững vờn quanh
Êm xuôi về Nam
Làng tôi bao mái tranh sang sát kề nhau,bóng tre ru bên mấy hàng cau
Đồng quê mơ màng.....................
Những bài ca như thế này phải được viết lên bằng xúc cảm tận đáy lòng, phải ôm ấp tình quê hương đầm ấm ngọt ngào trong tâm hồn mới bộc bày những lời lẽ thiết tha và âm điệu nhẹ nhàng dịu ngọt như vậy. Tình Hoài Hương của Phạm Duy hay Làng Tôi của Chung Quân hay đêm Trăng Sáng Trong Làng của Thông Đạt hay Quê Hương của Hoàng Giác thì cũng giống như quê hương của bạn, làng quê của bạn, của tôi dưới những đêm Trăng Thanh Bình (Lam Phương) soi sáng, vang tiếng chày giã gạo. Vậy mà sao chúng ta không nói được gì mấy chục năm xa xứ. Hay cái tiện nghi vật chất thừa thải làm hủ hóa tâm hồn mất rồi. Nhạc ngợi ca tình yêu Việt Nam nhiều lắm nhưng hầu hết không phải viết lên từ nguồn cảm hứng mà từ sự nhồi nặn nên gượng ép, giả tạo nên không sống lâu được.
Những tình khúc tuyệt vời ngày xưa mấy chục năm sau vẫn còn làm người nghe xao xuyến là những bài ca đã vượt qua sự thử thách thời gian: Văn Phụng tình tứ đong đưa với Châu Hà qua Suối Tóc, Cung Tiến ở tuổi học trò mộng mơ thương nhớ với Thu Vàng, Phạm Đình Chương nói lên tình yêu quê hương với Hội Trùng Dương. Đoàn Chuẩn Tư Linh lãng mạn đa tình qua Lá Thư …Nhớ tới mùa thu năm xưa gửi nhau phong thư ngào ngạt hương. Nét bút đa tình lã lơi…, Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay; Tô Vũ với Tạ Từ… Tình anh như thông đầu non,Vời cao trông mây buồn đứng. Muôn kiếp cô liêu Ngàn năm còn yêu Ngọc Bích với bản tango tuyệt diệu Mộng Chiều Xuân, Thông Đạt với Trăng Sáng Trong Làng…Đêm nay trăng sáng soi làng tôi/Một vài cô thôn nữ gánh lúa lo ngày mai…. Hoàng Giác rung động dạt dào với Ngày Về, Quê Hương. Thập niên 50 bản Trăng Mờ Bên Suối của nhạc sĩ Huế mình Lê Mộng Nguyên, cũng phổ biến khá rộng rãi tuy nhiên vì bị đặt lại lời người hẹn cùng ta đứng bên bụi chuối nên không còn nghe tiếng suối nước róc rách trong rừng trăng mờ ảo đâm ra mất thanh tao.
Sau ngày chia cắt đất nước Vũ Thành gửi ước mơ hoài vọng qua Giấc Mơ Hồi Hương và Hoàng Dương đem tâm tình mộc mạc nhớ thương một thành phố thân yêu đã mất qua bài Hướng Về Hà Nội.
Những năm về sau miền Nam có nhiều sáng tác để đời: Phạm Duy với Ao Anh Sức Chỉ Đường Tà, Nghìn Trùng Xa Cách ; Y vân yêu thương dào dạt mênh mông với Lòng Mẹ, thờ thẩn câm nín với Những Bước Chân Âm Thầm; Xuân Tiên giục giã gọi về sum họp bên bếp lửa hồng chan chứa thương yêu với Về Dưới Mái Nhà; Lê Trọng Nguyễn trở về qua thôn vắng tái tê tâm hồn nhớ bóng dáng người yêu đã ra đi với Nắng Chiều; Tuấn Khanh rộn ràng về thăm người yêu khi nắng nhẹ vương trên lưng đồi qua Hoa Soan Bên Thềm Cũ; Hoàng Thi Thơ trở về quê xưa ngỡ ngàng hay tin mẹ hiền đã mất và em gái đã đi lấy chồng với Đường Xưa Lối Cũ; Lam Phương vượt ra khỏi giòng nhạc mộc mạc Nam bộ trong hầu hết ca khúc của ông để xuất thần viết lên một tác phẩm tinh tế, âm diệu tuyệt vời qua tình khúc Chờ Người (Lệ Quyên diễn tả bài này hay lắm) và một bài thơ tuyệt vời của thi sĩ A Khuê đã được một nhac sĩ trẻ (17, 18 tuổi) phổ thành nhạc, đó là bài Về Đây Nghe Em của Trần Quang Lộc. Bài này trong CD Thái Thanh Hải Ngoại 3: Đêm Màu Hồng đã ghi sai tên tác giả là Lê Quang Lộc. Đáng tiếc cái lỗi lầm như vậy rất dễ tránh mà vẫn phạm phải như trường hợp Lê Thu với CD Vọng Ngày Xanh được người ca sĩ này coi…như một tác phẩm để đời mà trong tuyển chọn 10 bài ca thì 2 bài không ghi tên tác giả: Em Chết Theo Ngày Vu Quy và Điệu Buồn. Nếu tôi không lầm thì Em Chết Theo Ngày Vu Quy của Bảo Tô và Điệu Buồn là bài hát hay nhất của nhạc sĩ Thanh Trang. Ba mươi năm sau người Việt mình làm dịch vụ thương mại vẫn còn tính cách thủ công nghệ hoặc xem thường thính giả và tệ nhất là không tôn trọng người đã đem tim óc ra sáng tạo tác phẩm cho mình hát…làm giàu.
Về đây nghe em, về đây nghe em
về đây mặc áo the, đi guốc mộc
kể chuyện tình bằng lời ca dao
kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai
kể chuyện tình bằng hạt lúa mới
và về đây nghe gọi tiếng xưa, để nhớ trong tiếng vỡ bờ
Về đây nghe em, về đây nghe em
về đây thả ước mơ đi hát dạo
để chào đời bằng hạt sương mai
để bằng lòng ngọt ngào hấp hối
Để hận thù người người lắng xuống
rồi tìm nhau như tìm xót xa
trong lúc lệ đã đầy vơi
Này hồn ơi! lên cao lên cao
đem ánh sáng hân hoan trên trời
rọi vào đời cho ta tinh cầu yêu thương
này thịt xương ta chưa mang theo
khi ngã xuống mê man tủi hờn
Và về đây nghe nhau thở dài trong đêm
Về đây nghe em, về đây nghe em
về đây cùng khóc trên sông nước buồn
chở lòng người trở về quê hương
chở hồn mình về dòng suối mát
chở thật thà vào lòng dối trá
Rồi nhặt hoa xin tạ chút ơn
Hạnh phúc khi đã gặp nhau
Lớp tuổi mình giải trí bằng phương tiện gì trong thời điểm đó? Ngoài ciné, sách báo thì mình có phương tiện gì để nghe nhạc không. Chỉ một ít gia đình giàu mới có được một chiếc máy ra-dô mạnh đủ để bắt được đài Pháp Á ở Saigon còn không thì chi nghe được mỗi đài Huế phát thanh giới hạn mấy giờ một ngày. Mấy ai có máy phono quay bằng tay để nghe nhạc Việt trên những đĩa đá 33 vòng dày cộp, nặng trịch. Tôi không nhớ mình có nhiều cơ hội để nghe những bài hát trử tình thời tiền chiến trong thập niên 50 ngoại trừ nghe tại những buổi văn nghệ ngoài trời ở bến Thương Bạc do những nghệ sĩ cây nhà lá vuờng trình diễn trong đó có nữ ca sĩ Mỹ Linh nhà ở đường Võ Tánh với bài tủ Jambalaya. Họa hoằn mới có Đại Nhạc Hội, hoặc thoại kịch từ Saigòn ra trình diễn. Ban Dân Nam với Túy Hoa, Túy Phượng, Túy Hồng và lang quân Lam Phương một trong 3 Sao Băng, hai người kia là Phùng Trọng chơi trống và Lê Duyên chơi mandoline. Đại nhạc hội Hoàng Thi Thơ thì có thần đồng Hoàng Thi Thao độc tấu vĩ cầm Les Yeux noirs, một bài ca của dân du mục Nga đã được tay Tây ban cầm Django Reinhard làm nổi tiếng ở Paris thập niên 30. Thời đó đất nước mình vượng phát, xuất hiện nhiều thần đồng, quái kiệt. Một nữ thần đồng khác là Quỳnh Giao xuất hiện trong phim Đất Lành. Còn quái kiệt, minh tinh thì vô số kể. Như Trần Văn Trạch, Tùng Lâm, Xuân Phát, La Thoại Tân. Minh tinh thì có Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương và đại tài tử quốc tế Kiều Chinh xuất hiện trong Year of Tiger (1964) với Marshall Thompson cứng đơ như khúc gỗ. Thập niên 50, tôi không nhớ rõ miền Nam đã sản xuất đĩa nhựa tân nhạc 33 vòng hay không, tôi chỉ biết có đĩa đá thâu cổ nhạc Nam phần, còn băng cassette thì hồi đó chưa được sáng chế (hoặc có mà chưa xuất hiện ở Viêt Nam) nên rõ ràng là mình không có nhiều phương tiện để thưởng thức nhạc Việt. Từ giữa thập niên 50 mỗi lần Tết đến tôi nôn nao chi lạ. Không phải áo quần mới. Không phải tiền lì xì. Không phải được ba hôm ăn uống phủ phê mà nôn nao vì được xem phim Tết và nghe nhạc Xuân. Tôi yêu nhạc xuân. Từ bản Valse Việt nam đầu tiên Xuân và Tuổi Trẻ của cố nhạc sĩ La Hối đến bản Tango Mộng Chiều Xuân của Ngọc Bích. Từ Bến Xuân của Văn Cao đến Xuân Ca của Phạm Duy. Từ Ly Rượu Mừng của Phạm Đình Chương đến Anh Cho Em Mùa Xuân của Nguyễn Hiền. Cả một bầu trời xuân bát ngát, dịu dàng lã lướt như cánh bướm vờn hoa, ngọt nào đầm ấm như âm thanh tiếng nước sôi tí tách từ nồi bánh tét trên bếp hồng. Cả một khung trời nhung nhớ theo tiếng hát trở về. Cho đến bây giờ mỗi độ xuân về gia đình tôi vẫn rộn ràng những bài ca xuân một tuần lễ trước Tết và vài hôm sau đó. Vậy là tôi cũng yêu nhạc Việt lắm chứ. Vậy mà mai hiền thê hay cằn nhằn, anh nghe mãi loại nhạc léo nhéo ấy suốt ngày mà sao chịu được hay thế (Nhạc léo nhéo ấy là những Concerto for Violin và Orchestra hay Piano). Không những chỉ yêu thôi mà còn mê nữa nhưng có lẽ tôi hơi lọc lựa. Tôi chỉ thích những loại nhạc ngợi ca tình tự quê hương vì loại nhạc này nếu không có xúc đông chân thật thì không thể viết lên được. Nhạc tình, có lẻ, …Anh xin làm đá cuội mà lăn theo gót hài trong Biết Đâu Cội Nguồn của họ Trịnh thì mới đúng gọi là tình si như mối tình Đoàn Dự dành cho Vương Ngọc Yến.Cũng chẳng sao vì cảm quan nghệ thuật lấy gì làm tiêu chuẩn? Cái mà Tây phương gọi là culture bao gồm mọi lãnh vực sinh hoạt cả thể chầt lẫn tinh thần của một xã hội, vì vậy vừa có tính cách đặc thù vừa bao quát. Cho nên đụng vào cái culture của người là một vấn đề rất tế nhị. Nước mắm kho quẹt của mình ngon đáo để nhưng có thằng Tây nào chịu được không? Và chưa chắc mọi người Việt đều hít hà hạnh phúc với mùi vị đó, như hương vị quả sầu riêng nhà tôi vẫn nhắm tít mắt tận hưởng mà tôi lại không thể đến gần. Cái đó là culture, thưởng thức âm nhạc cũng như thưởng thức món ăn thôi, có người nhấp một ngụm trà mà ngủ uẩn biến tan như Trần Kiêm Đoàn (trong Tu Bụi), nhưng cách pha trà của anh công phu lắm, nếu tôi có khả năng làm được như vậy thì chưa đưa chung lên môi cũng ngộ được rồi. Có người nghe một khúc nhạc mà hận thù tan biến. Vì thế tôi lọc lựa cũng phải thôi. Ngoài ba mươi năm nay tôi vẫn thắc mắc tại sao lúc bỏ Bắc vào Nam, dù xa mồ mả tiên tổ nhưng vẫn ở trên đất nước vậy mà thuỏ ấy nhiều người đã nói lên cái tâm tình hoài vọng thiết tha của minh qua Tình Hoài Hương, Hướng Về Hà Nội, Giấc Mơ Hồi Hương; còn với cuộc ra đi nghìn trùng xa thẳm, lưu lạc xứ người trong một hoàn cảnh sinh hoạt văn hóa hoàn toàn xa lạ mà không có ai bộc bạch nổi thương tiếc xa quê. Cũng có vài bài ca thương gió khóc trăng vu vơ, cũng có vài ba ca khúc hẹn về giài phóng quê nhà, cũng có vài ba ca khúc nhớ Saigon ngày xưa anh chờ em đầu hè, cuối ngõ, cũng có vài ba ca khúc nhớ Đà lạt lũng thấp đồi cao, nhớ Huế trăng nước Vĩ Dạ còn đợi câu chờ. Chờ ai? Chờ ông cai bến đò. Bến đò Thừa Phủ em thẹn thùng nghiêng nón làm anh xao xuyến tâm hồn. Vậy thôi sao. Huế mình ở đâu cũng tụ tập ồn ào, ở đâu cũng lao xao chào xáo. Sông Hương mình êm đềm, tuyệt vời, thơ mộng hơn nghìn vạn lần sông Seine. Tháp Linh Mụ mình cao ngất từng xanh, cao hơn trăm lần tháp nghiêng-Leaning Tower Pisa ở Florence mà lại xây năm nghìn năm trước so với Tháp Pisa chỉ mới xây vào năm 1190 thôi. Huế mình cái chi cũng nhất hết. Vang bóng một thời với cung điện, đền đài lăng miếu, với tiếng chuông thiên mụ, với giòng sông tư tưởngcó bờ bên này là bão nổi bon chen tuyệt vọng và bên kia là trầm tư tĩnh lặng tuyệt vời.(Trần Kiêm Đoàn, Tu Bụi, trang 33).
Monday, June 23, 2008
Sunday, June 15, 2008
Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà
Nguyễn thị Thảo An
Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu.
Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.
Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.
Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam .
Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.
Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.
Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau , Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.
Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.
Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.
Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.
Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.
Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.
Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.
Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.
Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.
Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.
Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.
Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. ất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.
Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.
Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?
Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.
Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.
Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.
Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?
Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.
Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.
Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?
Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?
Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.
Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.
Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.
Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.
Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.
Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.
Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.
Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.
Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.
Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.
Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.
Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trờiCám ơn hoa đã vì ta nởThế giới vui từ mỗi lẻ loi(Tô Thùy Yên)
Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?
Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?
Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.
Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.
Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.
Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.
Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.
Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.
Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.
Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.
Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ?
Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.
Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà. Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ
như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được nhữngtruyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai.
Nguyễn thị Thảo An
Nguyễn thị Thảo An
Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu.
Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.
Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.
Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam .
Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.
Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.
Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau , Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.
Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.
Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.
Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.
Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.
Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.
Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.
Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.
Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.
Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.
Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.
Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. ất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.
Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.
Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?
Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.
Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.
Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.
Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?
Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.
Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.
Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?
Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?
Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.
Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.
Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.
Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.
Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.
Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.
Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.
Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.
Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.
Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.
Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.
Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trờiCám ơn hoa đã vì ta nởThế giới vui từ mỗi lẻ loi(Tô Thùy Yên)
Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?
Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?
Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.
Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.
Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.
Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.
Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.
Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.
Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.
Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.
Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ?
Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.
Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà. Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ
như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được nhữngtruyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai.
Nguyễn thị Thảo An
Tuesday, June 10, 2008
Father's Day
THÁNG SÁU, NGÀY CỦA CHA, NGÀY CỦA NGƯỜI CHA QUÂN ĐỘI
Giao Chỉ, San Jose., Jun 08, 2008
Cali Today News - Ngày Chủ Nhật 15 tháng 6 hàng năm, người Mỹ tuyên xưng là ngày vinh danh những người cha. Truyền thống Hoa Kỳ đã điều kiện hóa tình nghĩa theo trật tự, nên quanh năm lãnh vực nào cũng có dự phần. Ngày của ông bà, ngày của cô thư ký, ngày của cựu chiến binh, ngày của mẹ, ngày của cha và nhiều ngày trọng đại khác.
Các thương vụ thị trường cũng nhờ vậy mà phát triển. Trong khi đó, ngày Quân Lực của Hoa Kỳ vào cuối tháng 5 thì ngày Quân Lực VNCH là 19 tháng 6 hàng năm.
Hôm nay đề tài câu chuyện hàng tuần của chúng tôi là sự nối kết của Ngày Quân Lực và người Cha chiến sĩ Cộng Hòa.
Ba mươi mốt năm về trước, vào tháng 6-1977, chúng tôi đã có cơ hội tổ chức Ngày Quân Lực đầu tiên ở San Jose với đầy đủ câu chuyện vui buồn đời quân ngũ. Kỷ niệm về thời chinh chiến vừa mới rũ bỏ được vài năm. Kẻ chạy thoát mang đầy mặc cảm, ngồi nhắc nhở về đất nước quê hương với hàng ngàn bằng hữu tù đày. Đó là những Ngày Quân Lực hoài cảm đã mở đường cho các tổ chức nối tiếp hàng năm. Nhưng trong khi đó thì chúng ta chưa hội nhập đúng mức để lưu tâm đến ngày mà người Mỹ gọi là Father's Day.
Trên thực tế thì phần lớn các gia đình đều có cha đi học tập cải tạo, một thứ danh hiệu cách mạng gán cho những người bị tù đầy.
Sau những năm đầu tiên người Việt còn thưa thớt, đến đầu thập niên 80 những thuyền nhân vượt biển mới bắt đầu định cư. Và phải đến năm 1985 những sĩ quan tù lao cải được tha đợt đầu tiên mới bắt đầu vượt biên đến Mỹ. Một lần nữa những người chủ gia đình trải qua cả thập niên lao động cải tạo bắt đầu mở con đường mới. Trong công việc xã hội định cư, đón người mới đến tại San Jose chúng tôi có cơ hội chào mừng trung tá Nguyễn Đình Tạo với 9 năm tù ngục đến đất mới. Và trên con đường gian khổ ông Tạo đã mất đi một đứa con can trường mà ông yêu quý nhất.
Chúng tôi cũng có cơ hội đón bác sĩ Trần Xuân Ninh cũng là một thuyền nhân trên bể khổ. Và ông bà cũng mất đứa con thiên thần đẹp đẽ nhất trên biển Đông.
Cùng với bác sĩ Ninh và trung tá Tạo biết bao nhiêu người cha cựu tù lao cải đã mở đường tìm tự do với cái giá năm ăn năm thua để vội vã ra đi trước khi ánh sáng của chương trình định cư tù cải tạo ló rạng ở chân trời.
Cho đến cuối thập niên 80, bộ ngoại giao Hoa Kỳ bắt đầu mở hồ sơ đối thoại với Hà Nội và việc trả tự do cho các chiến binh Việt Nam Cộng Hòa. Người Mỹ lúc đó cũng chỉ muốn rằng các bạn đồng minh cũ của họ được tự do trở về nguyên quán. Thảo luận trải qua nhiều năm, nhì nhằng kéo dài như hội nghị Paris thời 70. Vì áp lực của Mỹ và thế giới, Hà Nội cũng muốn thả tù nhưng không muốn có hàng trăm ngàn cựu chiến binh Cộng Hòa về nằm vùng khắp mọi nơi. Lá bài được đặt ra. Nếu Mỹ muốn lãnh thì yêu cầu đem đi hết. Hoa Kỳ đồng ý. Đó là thời điểm của 1984.
Để chính phủ Mỹ có thể chấp thuận, bộ ngoại giao phải ra điều trần xin tiền Quốc Hội. Các phái đoàn cộng đồng Việt Nam thời kỳ 80, được bộ ngoại giao mời đến để bày hàng làm áp lực và khóc van với các dân biểu tại Hoa Thịnh Đốn.
Chúng tôi tại cơ quan IRCC và VIVO cùng với các bạn Nam Cali, Hoa Thịnh Đốn, chị Khúc Minh Thơ của Hội Gia Đình Cựu Tù Chính Trị, cùng các tù chính trị vượt biên đã tham dự và cố làm tròn nhiệm vụ.
Sau cùng thỏa ước định cư cựu tù chính trị được ký kết giữa ông Funseth phụ tá thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ và bộ ngoại giao Hà Nội. Những người Cha lao cải lần lượt được trả tự do và phái đoàn Mỹ bắt đầu công việc phỏng vấn suốt 10 năm tại Sài Gòn.
Tại San Jose, chúng tôi được tiếp đón những người Cha VNCH đến San Francisco trên chuyến bay đầu tiên vào đất Mỹ. Đó là ngày thứ Bẩy 13/1/1990 diện H01. Trung úy La Phước Hy về Oakland. Trung úy Hải Quân Bùi Thế Nguyên về San Francisco, Trung Úy Nguyễn Hữu Thức về San Jose. Rồi các đợt kế tiếp đến gia đình đông đảo của Đại tá Lại Đức Chuẩn, thuộc bộ TTM. Gia đình cô đơn với các con còn ở lại của Trung tá Nhảy dù Nguyễn Nghiêm Tôn.
Lần lượt từ 1990 đến 2000, suốt 10 năm đầu, hàng ngàn gia đình đã đến Mỹ. Có gia đình người Cha đi trước, có gia đình người Cha đi sau. Có những đơn vị toàn vẹn, có những đơn vị tổn thất nhưng phần lớn là các người chủ gia đình với trên 3 năm tù đều trở thành tấm vé thông hành tự do cho cả nhà. Cho đến ngày nay cũng vẫn còn những đợt H0 đến muộn.
Năm 1995, Tổng Nha Định Cư Di Dân Tỵ Nạn tại Hoa Thịnh Đốn sau khi phỏng vấn một nghìn gia đình HO đã có một vài kết luận. Hầu hết trả lời là họ ra đi vì tương lai con cái.
Luật định cư trước đây phán rằng nếu chủ gia đình mà qua đời thì hồ sơ cả nhà sẽ bị “xù.” Nhiều người cha đau yếu cố chống với từ thần từng giờ, từng phút để cho con cái được thấy cây cầu Golden Gate ở San Francisco.
Mấy năm trước, ở San Jose đã có những đứa con và những đứa cháu 10 năm chờ đợi, mới được bố điện về nói rằng "chúng mày phải đi chùa cầu nguyện để được McCain vớt".
McCain là tên ông Thượng Nghị Sĩ cựu HO Hoa Kỳ đã đệ trình dự luật nới rộng định cư tù cải tạo mà đa số người Việt đều nhớ ơn.
Tiếc thay văn phòng của ông có cho chúng tôi biết là thư yêu cầu can thiệp thì nhiều nhưng thư cảm ơn thì không có.
Vì vậy, nhân ngày Father's Day năm nay, có lẽ chúng ta cũng nên có đôi lời lịch sự với người bạn HO gốc Mỹ là ông cựu tù binh Hilton Hà Nội là Thượng nghị sĩ McCain. Chỉ cần gửi thank you note về Capitol Hill, Washington DC là thư sẽ đến nơi.
Tuy nhiên, nếu các bạn trẻ theo dõi chương trình Dân Sinh, thì đây là lời tôi muốn nói với các cháu. Trong suốt 10 năm qua, chúng tôi đã gặp khá nhiều cựu chiến binh VNCH, cựu tù cải tạo nhưng rất cô đơn. Các bác đến nhờ cơ quan xã hội giúp đỡ chuyện này chuyện nọ. Khi hỏi đến gia đình, các bác đều không muốn đề cập đến con cái.
Nếu gặng hỏi thì trên mặt cựu chiến binh Cộng Hòa nước mắt tuôn trào. Có người nói là tụi nó bận làm ăn. Hoặc là chán lắm, chẳng nhờ cậy gì được. Đôi khi thì nói rằng thằng con trai tôi thì cũng được, nhưng con vợ trời đánh không chết nên tôi coi như không có.
Hỏi chuyện về chuyến định cư mấy năm trước, ai nấy đều nói rằng gia đình lúc ra đi thì đông đảo về vui vẻ lắm. Tất cả đều nhờ vào cái giấy ra trại của ông già. Tờ giấy màu bụi đất chứng tích của 10 năm đói rét, tù đầy, chợt nhờ nước Mỹ ngó lại, bỗng chốc đưa cả bầu đoàn thê tử qua sống ở đất nước hùng cường. Chỉ mới có vài năm, bọn nhỏ bỏ ông già lang thang xe bus như vậy sao đành.
Đó là lý do tại sao, chúng ta cần liên kết ý nghĩa của Ngày Quân Lực VNCH và Father's Day của Hoa Kỳ. Những người chiến binh anh hùng của chúng ta, nếu quả thực không chiến thắng được trận cuối cùng nhưng cũng trả xong món nợ tù đày, và còn đem tấm thân làm cái vé cho cả nhà lên con tàu tự do đến miền đất mới. Bây giờ còn ai hơn được ông, để đứng ra nhận món qùa của Ngày Father's Day tại Hoa Kỳ.
Chỉ mong rằng những đứa con của ông biết đến lời nhắn nhủ này.
Giao Chỉ, San Jose.
Giao Chỉ, San Jose., Jun 08, 2008
Cali Today News - Ngày Chủ Nhật 15 tháng 6 hàng năm, người Mỹ tuyên xưng là ngày vinh danh những người cha. Truyền thống Hoa Kỳ đã điều kiện hóa tình nghĩa theo trật tự, nên quanh năm lãnh vực nào cũng có dự phần. Ngày của ông bà, ngày của cô thư ký, ngày của cựu chiến binh, ngày của mẹ, ngày của cha và nhiều ngày trọng đại khác.
Các thương vụ thị trường cũng nhờ vậy mà phát triển. Trong khi đó, ngày Quân Lực của Hoa Kỳ vào cuối tháng 5 thì ngày Quân Lực VNCH là 19 tháng 6 hàng năm.
Hôm nay đề tài câu chuyện hàng tuần của chúng tôi là sự nối kết của Ngày Quân Lực và người Cha chiến sĩ Cộng Hòa.
Ba mươi mốt năm về trước, vào tháng 6-1977, chúng tôi đã có cơ hội tổ chức Ngày Quân Lực đầu tiên ở San Jose với đầy đủ câu chuyện vui buồn đời quân ngũ. Kỷ niệm về thời chinh chiến vừa mới rũ bỏ được vài năm. Kẻ chạy thoát mang đầy mặc cảm, ngồi nhắc nhở về đất nước quê hương với hàng ngàn bằng hữu tù đày. Đó là những Ngày Quân Lực hoài cảm đã mở đường cho các tổ chức nối tiếp hàng năm. Nhưng trong khi đó thì chúng ta chưa hội nhập đúng mức để lưu tâm đến ngày mà người Mỹ gọi là Father's Day.
Trên thực tế thì phần lớn các gia đình đều có cha đi học tập cải tạo, một thứ danh hiệu cách mạng gán cho những người bị tù đầy.
Sau những năm đầu tiên người Việt còn thưa thớt, đến đầu thập niên 80 những thuyền nhân vượt biển mới bắt đầu định cư. Và phải đến năm 1985 những sĩ quan tù lao cải được tha đợt đầu tiên mới bắt đầu vượt biên đến Mỹ. Một lần nữa những người chủ gia đình trải qua cả thập niên lao động cải tạo bắt đầu mở con đường mới. Trong công việc xã hội định cư, đón người mới đến tại San Jose chúng tôi có cơ hội chào mừng trung tá Nguyễn Đình Tạo với 9 năm tù ngục đến đất mới. Và trên con đường gian khổ ông Tạo đã mất đi một đứa con can trường mà ông yêu quý nhất.
Chúng tôi cũng có cơ hội đón bác sĩ Trần Xuân Ninh cũng là một thuyền nhân trên bể khổ. Và ông bà cũng mất đứa con thiên thần đẹp đẽ nhất trên biển Đông.
Cùng với bác sĩ Ninh và trung tá Tạo biết bao nhiêu người cha cựu tù lao cải đã mở đường tìm tự do với cái giá năm ăn năm thua để vội vã ra đi trước khi ánh sáng của chương trình định cư tù cải tạo ló rạng ở chân trời.
Cho đến cuối thập niên 80, bộ ngoại giao Hoa Kỳ bắt đầu mở hồ sơ đối thoại với Hà Nội và việc trả tự do cho các chiến binh Việt Nam Cộng Hòa. Người Mỹ lúc đó cũng chỉ muốn rằng các bạn đồng minh cũ của họ được tự do trở về nguyên quán. Thảo luận trải qua nhiều năm, nhì nhằng kéo dài như hội nghị Paris thời 70. Vì áp lực của Mỹ và thế giới, Hà Nội cũng muốn thả tù nhưng không muốn có hàng trăm ngàn cựu chiến binh Cộng Hòa về nằm vùng khắp mọi nơi. Lá bài được đặt ra. Nếu Mỹ muốn lãnh thì yêu cầu đem đi hết. Hoa Kỳ đồng ý. Đó là thời điểm của 1984.
Để chính phủ Mỹ có thể chấp thuận, bộ ngoại giao phải ra điều trần xin tiền Quốc Hội. Các phái đoàn cộng đồng Việt Nam thời kỳ 80, được bộ ngoại giao mời đến để bày hàng làm áp lực và khóc van với các dân biểu tại Hoa Thịnh Đốn.
Chúng tôi tại cơ quan IRCC và VIVO cùng với các bạn Nam Cali, Hoa Thịnh Đốn, chị Khúc Minh Thơ của Hội Gia Đình Cựu Tù Chính Trị, cùng các tù chính trị vượt biên đã tham dự và cố làm tròn nhiệm vụ.
Sau cùng thỏa ước định cư cựu tù chính trị được ký kết giữa ông Funseth phụ tá thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ và bộ ngoại giao Hà Nội. Những người Cha lao cải lần lượt được trả tự do và phái đoàn Mỹ bắt đầu công việc phỏng vấn suốt 10 năm tại Sài Gòn.
Tại San Jose, chúng tôi được tiếp đón những người Cha VNCH đến San Francisco trên chuyến bay đầu tiên vào đất Mỹ. Đó là ngày thứ Bẩy 13/1/1990 diện H01. Trung úy La Phước Hy về Oakland. Trung úy Hải Quân Bùi Thế Nguyên về San Francisco, Trung Úy Nguyễn Hữu Thức về San Jose. Rồi các đợt kế tiếp đến gia đình đông đảo của Đại tá Lại Đức Chuẩn, thuộc bộ TTM. Gia đình cô đơn với các con còn ở lại của Trung tá Nhảy dù Nguyễn Nghiêm Tôn.
Lần lượt từ 1990 đến 2000, suốt 10 năm đầu, hàng ngàn gia đình đã đến Mỹ. Có gia đình người Cha đi trước, có gia đình người Cha đi sau. Có những đơn vị toàn vẹn, có những đơn vị tổn thất nhưng phần lớn là các người chủ gia đình với trên 3 năm tù đều trở thành tấm vé thông hành tự do cho cả nhà. Cho đến ngày nay cũng vẫn còn những đợt H0 đến muộn.
Năm 1995, Tổng Nha Định Cư Di Dân Tỵ Nạn tại Hoa Thịnh Đốn sau khi phỏng vấn một nghìn gia đình HO đã có một vài kết luận. Hầu hết trả lời là họ ra đi vì tương lai con cái.
Luật định cư trước đây phán rằng nếu chủ gia đình mà qua đời thì hồ sơ cả nhà sẽ bị “xù.” Nhiều người cha đau yếu cố chống với từ thần từng giờ, từng phút để cho con cái được thấy cây cầu Golden Gate ở San Francisco.
Mấy năm trước, ở San Jose đã có những đứa con và những đứa cháu 10 năm chờ đợi, mới được bố điện về nói rằng "chúng mày phải đi chùa cầu nguyện để được McCain vớt".
McCain là tên ông Thượng Nghị Sĩ cựu HO Hoa Kỳ đã đệ trình dự luật nới rộng định cư tù cải tạo mà đa số người Việt đều nhớ ơn.
Tiếc thay văn phòng của ông có cho chúng tôi biết là thư yêu cầu can thiệp thì nhiều nhưng thư cảm ơn thì không có.
Vì vậy, nhân ngày Father's Day năm nay, có lẽ chúng ta cũng nên có đôi lời lịch sự với người bạn HO gốc Mỹ là ông cựu tù binh Hilton Hà Nội là Thượng nghị sĩ McCain. Chỉ cần gửi thank you note về Capitol Hill, Washington DC là thư sẽ đến nơi.
Tuy nhiên, nếu các bạn trẻ theo dõi chương trình Dân Sinh, thì đây là lời tôi muốn nói với các cháu. Trong suốt 10 năm qua, chúng tôi đã gặp khá nhiều cựu chiến binh VNCH, cựu tù cải tạo nhưng rất cô đơn. Các bác đến nhờ cơ quan xã hội giúp đỡ chuyện này chuyện nọ. Khi hỏi đến gia đình, các bác đều không muốn đề cập đến con cái.
Nếu gặng hỏi thì trên mặt cựu chiến binh Cộng Hòa nước mắt tuôn trào. Có người nói là tụi nó bận làm ăn. Hoặc là chán lắm, chẳng nhờ cậy gì được. Đôi khi thì nói rằng thằng con trai tôi thì cũng được, nhưng con vợ trời đánh không chết nên tôi coi như không có.
Hỏi chuyện về chuyến định cư mấy năm trước, ai nấy đều nói rằng gia đình lúc ra đi thì đông đảo về vui vẻ lắm. Tất cả đều nhờ vào cái giấy ra trại của ông già. Tờ giấy màu bụi đất chứng tích của 10 năm đói rét, tù đầy, chợt nhờ nước Mỹ ngó lại, bỗng chốc đưa cả bầu đoàn thê tử qua sống ở đất nước hùng cường. Chỉ mới có vài năm, bọn nhỏ bỏ ông già lang thang xe bus như vậy sao đành.
Đó là lý do tại sao, chúng ta cần liên kết ý nghĩa của Ngày Quân Lực VNCH và Father's Day của Hoa Kỳ. Những người chiến binh anh hùng của chúng ta, nếu quả thực không chiến thắng được trận cuối cùng nhưng cũng trả xong món nợ tù đày, và còn đem tấm thân làm cái vé cho cả nhà lên con tàu tự do đến miền đất mới. Bây giờ còn ai hơn được ông, để đứng ra nhận món qùa của Ngày Father's Day tại Hoa Kỳ.
Chỉ mong rằng những đứa con của ông biết đến lời nhắn nhủ này.
Giao Chỉ, San Jose.
Subscribe to:
Posts (Atom)