Wednesday, January 13, 2010
Wednesday, January 6, 2010
Kỷ niệm khó quên
Tai nạn đầu tiên của tôi trong nghiệp bay bổng , sau đó anh Vũ Đức Thắng và tôi tình nguyện ra Phi Đoàn 219....
Phạm Công Khanh 64 C (Thần Chùy - Long Mã)
Một giấc mơ hãi hùng đến với tôi trong đêm...
Tôi đi lạc giữa rừng núi cao nguyên, sương lạnh và giá rét, người bạn bên cạnh tôi rên xiết vì những vết thương đang hành, anh níu lấy cánh tay tôi và lê từng bước một cách khó khăn. Tôi cũng bị thương nhưng có lẽ nhẹ hơn. Hai người chúng tôi cùng dìu nhau đi trong bóng đêm, cố tìm lối thoát và lẩn tránh kẻ thù...
Một tiếng sấm ngoài trời làm tôi giật mình thức giấc. Bừng mắt dậy, tôi biết đó không phải là một giấc mơ - hay nói một cách chính xác hơn, giấc mơ ấy chính là những gì đã xảy ra trong đời binh nghiệp của tôi 37 năm về trước.
Không hiểu người bạn Lý Thường Kiệt , đã cùng đi với tôi trong khu rừng năm ấy, giờ phiêu bạc nơi đâu? Còn hay mất? Sáng hôm sau, tôi vội vàng lên "net" gửi đi khắp nơi với hy vọng mong manh sẽ nhận được vài tin tức về anh...
Câu chuyện ấy đã được nhà báo Anh Tử thuật lại trên nhất báo Chính Luận trong vòng một tuần lễ với tựa đề;
"36 giờ trong rừng Bảo Lộc".
Hôm nay, tôi thuật lại chuyện này, tai nạn đầu tiên trong nghiệp bay bổng của tôi và chính sác hơn:
"54 giờ trong rừng Bảo Lộc".
* * *
Sau khi mãn khóa trực thăng H-34 tại Fort Rucker, Hoa Kỳ, tháng 6 năm 1966, bốn hoa tiêu trực thăng về trình diện Bộ Tư Lệnh Không Quân. Nguyễn Chính Tâm và tôi PCK bốc thăm về Phi đoàn 211 (Thần Chùy) - Không Đoàn 33 Chiến Thuật, thời gian này Phi đoàn trưởng là Đại Úy Nguyễn Hữu Hậu và Phi đoàn phó là Đại Úy Nguyễn Kim Bông.
Sau một thời gian bay bổng, hành quân đổ bộ, trực tải thương đêm, tôi đã có một số kinh nghiệm chiến trường...
Hôm đó, cũng như mọi ngày, trước khi rời phần sở, tôi lên Phòng hành quân để nhận công tác cho ngày hôm sau, và được biết là phải có mặt sớm để thi hành phi vụ VIP đi Bảo Lộc. Trung Úy Lý Thường Kiệt là trưởng phi cơ, tôi hoa tiêu phó, cùng với Trung Sĩ Lê Ngọc Hồ cơ khí viên phi hành, chở phái đoàn Bộ Xã Hội đi khánh thành Đại Học Nông Lâm Súc tại Bảo Lộc.
Sau khi nhét hai gói Lucky Strike trong túi theo thói quen, tôi tới đúng giờ để nhận công tác. "Check weather" chúng tôi được biết thời tiết tại Bảo Lộc không được tốt lắm. Tiền phi xong, chúng tôi mang phi cơ sang sân VIP nằm bên phi cảng dân sự để đón phái đoàn của Bộ Xã Hội do Ông Nguyễn Văn Học (Bộ trưởng) hướng dẫn. Cùng đi còn có một Bác sĩ cố vấn người Thụy Điển, phóng viên Anh Tử của báo Chính Luận, ngoài ra còn có con trai Ông Bộ trưởng, một sinh viên cũng đi theo. Phi hành đoàn và phái đoàn tổng cộng 13 người!
8 giờ 30 sáng, phi cơ cất cánh, lấy cao độ, trực chỉ Bảo Lộc, qua khỏi Định Quán, lờ mờ bên dưới (đó là điểm check point) trời bắt đầu có sương mù, mây bắt đầu dầy, được báo ở Bảo Lộc thời tiết khả quan hơn, tơi nơi chúng tôi sẽ kiếm "lỗ" chui xuống. Bay trên mây, gió lạnh cao nguyên luồn vào buồng lái, tôi đốt điếu thuốc Lucky, kéo một hơi dài và cảm thấy rất ấm áp, phấn khởi với dự tính một chuyến đi lý thú tại Bảo Lộc, khác với những phi vụ hành quân, tản thương hay bay đêm...
Đang miên man với những ý nghĩ yên lành, bỗng nhiên tiếng động cơ của trực thăng "ho" lên vài tiếng, đánh thức sự cảnh giác của chúng tôi. Đẩy cần "mixture" lên "full", check kỹ lại những đồng hồ phi cụ, máy bay vẫn tiếp tục "ho". Vòng quay của máy (RPM) không được bình thường và phi cơ mất cao độ từ từ...
Chúng tôi lọt vào đám mây, Trung Sĩ Hồ bấm intercom báo cáo tình trạng hành khách đã tỏ ra hơi mất bình tĩnh. Anh L.T.K. bay instrument quẹo lại. lấy hướng trở lại Định Quán, tôi cố theo dõi các đồng hồ và nhìn một màu mây mù xám đặc vây quanh. Lúc đó chúng tôi rất bình tĩnh, nhìn nhau với đôi mắt sáng quắc, sẵn sàng đối phó với mọi bất trắc... Cao độ vẫn mất từ từ, có những lúc tôi cảm thấy tiếng động cơ im lặng hẳn rồi lại nổ trở lại rất nhanh.
Bỗng nhiên một màu xanh thẫm như một tấm màn bao phủ trước mũi phi cơ tới rất gần. Có lẽ lúc đó anh K. không nhìn thấy vì còn đang cặm cụi với những đồng hồ phi cụ. Tôi vội chụp vào cần lái, ấn intercom và hét to lên cho anh K. biết là "NÚI" và dùng động tác "Emergency - Force landing - "Flare" để "Touch down" (một phản xạ chớp nhoáng tự nhiên trong nghề).
Một tiếng ầm dữ dội pha lẫn với tiếng la hét của 13 người cùng với tiếng đổ ngã của cây cối, tiếng gãy nát của 3 cánh quạt và thân phi cơ, xẩy ra trong tích tắc. Lúc đó lồng ngực tôi như bị tức nghẹn vì sức va chạm quá mạnh, chân tay rã rời, ngồi trong tư thế nắm ngang, đầu chúi xuống những ngọn cỏ...
Tôi hít một hơi thật dài để trấn tĩnh. Tiếng người rên xiết, tiếng xăng chảy róc rách và mùi xăng nồng nặc khiến tôi trở nên sáng suốt hơn. Nhìn phía trên bên phải, tôi thấy L.T.K. còn đang kinh hoàng mở mắt nhìn tôi. Tôi quyết định phải rời phi cơ ngay vì sợ phi cơ phát hỏa. Trong vị thế buồng lái nằm ngang về phía bên trái, đầu cắm xuống đất, anh K. nằm trên, thì chỉ còn một lối thoát duy nhất là cửa sổ phía bên phải của Anh K.. Tôi cố gắng lắm mới gỡ được chân của Anh K. bị đè dưới ghế ngồi, sau khi mở seat belt của anh, tôi dùng hết sức đẩy Anh K. chui ra khỏi buồng lái và tôi bò ra sau.
Tôi quan sát thấy một phần đuôi của phi cơ bị treo tòng teng trên một cây cổ thụ. Tôi tiến lại cabin hành khách leo vào thì thấy Trung sĩ Hồ đã tử thương, đầu anh dù đội nón bay nhưng bị sức ép của ghế pilot từ trên dộng xuống, khiến đầu anh bị tụt hẳn vào trong thân người. Tôi còn đang bàng hoàng thương tiếc người đồng đội cùng phi hành đoàn thì tiếng rên xiết đau đớn cùng với giọng nói Tây phương "Au secour" đã khiến tôi sực tỉnh, đó là Ông Bác sĩ người Thụy Điển.
Tôi quay đầu lại, một cảnh tượng thật hãi hùng, máu đỏ lênh láng trên sàn phi cơ, tôi tiến lại từng người để coi sóc họ, thấy tất cả bị thương rất nặng và đang rên xiết. Bỗng anh phóng viên Anh Tử chợt ngồi dậy, hoảng hốt nắm lấy tay tôi rồi dáo dác tìm kiếm máy ảnh và đồ nghề của anh nhưng không thấy. Tôi nhủ thầm: thật may mắn, còn một người không bị thương!
Hai chúng tôi kiểm lại số người: chỉ có 12, thiếu mất anh sinh viên con Ông Bộ Trưởng, có lẽ anh đã bị văng đi xa. Tôi và Anh Tử chia nhau đi tìm kiếm nhưng không thấy. Trở lại thì chân Anh K. đã sưng phù lên, có lẽ bị gãy xương. Chúng tôi và Anh Tử bàn tính, mở bản đồ cố gắng chấm tọa độ và phương hướng.
Tôi quyết định đi một mình xuống sườn núi, theo con suối nhỏ dẫn tới quốc lộ 20 (Sàigòn -Bảo Lộc - Đà Lạt) trên đèo Blao, vùng Maragui, tìm phương tiện thông báo xin cứu cấp và chỉ định Anh tử ở lại để coi sóc anh L.T.K. và những người bị thương. Nhưng cuối cùng Anh K. và Anh Tử nhất định đòi đi theo tôi.
Tôi trở lại băng bó cho các vị trong phái đoàn và căn dặn ở yên tại chỗ, tôi sẽ cố gắng đi kiếm cách liên lạc thật nhanh với các toán cấp cứu.
Lúc 3 chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình là vào khoảng 11 giờ trưa cùng ngày. Xuống hết sườn núi quả nhiên chúng tôi gặp con suối nhỏ, liền đi theo với hy vọng sẽ sớm ra đường lộ. Đi theo con suối còn có những lợi điểm, thứ nhất có nước uống (vì thiếu ăn không sao nhưng thiếu nước là cả một vấn đề); thứ nhì đi dưới suối sẽ không để lại dấu vết gì.
Chúng tôi di chuyển rất chậm chạp vì Anh K. bị thương chân, đi rất khó khăn. Theo phương thức cứ một người đi nhanh mở đường, khoảng 20 phút thì dừng lại, ngồi đợi người kia dìu hoặc cõng Anh K. tới. Cứ như thế thay phiên nhau, nếu gặp trở ngại thì quay lại thông báo kịp thời.
Trên đường di chuyển, khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, chúng tôi nhìn thấy vài lon "Ration C" đã khui, không biết của toán quân bạn hành quân hay của du kích Việt cộng?
Anh Tử thận trọng đưa ra ý kiến:
-Các anh nên lột bỏ lon là đi thì hơn. Nếu không Việt cộng mà thấy thì ăn nói làm sao?
Nghe câu nói của anh ta trong lòng tôi vừa thấy khôi hài vừa đáng buồn!
Tôi và Anh K. chỉ cười rồi tiếp tục đi. Cắm cúi đi cả tiếng đồng hồ, khi trời nhá nhem tối, chúng tôi không thấy Anh Tử đâu nữa. Tôi hoang mang lo ngại, không biết anh có lọt vào tay địch hay làm mồi cho thú dữ không? Hay là anh tự ý tách riêng vì sợ đi chung với hai thằng phi công sẽ bị liên lụy?!
Nhưng dù là thế nào đi nữa, chúng tôi cũng phải cẩn thận hơn. Tôi không dám đi dưới suối nữa mà cõng Anh K. lên triền núi, đi dọc theo bờ suối khoảng 50 mét. Lúc này thì chân Anh K. đã sưng to, anh không đi được nữa, chỉ còn cách là tôi phải cõng anh mà thôi.
Trời tối đen như mực, giá lạnh của vùng núi xoáy vào người. Tôi tìm một nơi tương đối an toàn trong bụi rậm. Thời tiết núi rừng cao nguyên càng về đêm càng lạnh, hai hàm răng chúng tôi đánh vào nhau lạch cạch không ngừng. Tôi xé tấm nylon bọc bản đồ, tuy không được lớn cho lắm nhưng cũng đủ cho hai cái đầu chui vào. Với mục đích tiết kiệm, tôi chỉ đốt một điếu Lucky Strike cho cả hai hút chung. Khói thuốc đi sâu vào lồng ngực và tỏa ra trong thể tích bé nhỏ của bao nylon với hai cái đầu đã sưởi ấm chúng tôi phần nào.
Trong cơn đau, Anh Kiệt "nghiến" (anh có biệt danh là "Nghiến" trong khoá 62KQ) ôm lấy tôi thều thào:
-Đừng bỏ tôi K. nhé, con trai tôi mới đầy tháng hôm qua, nó cần phải có cha!...
Tôi nhủ thầm trong bụng để tự trấn an mình: Không thể có chuyện đó. Chúng ta nhất định sống để trở về!
Thế rồi, dù lạnh buốt chúng tôi cũng ngủ thiếp đi có lẽ vì quá mệt nhọc và vì đói. Rồi đêm hãi hùng cũng qua đi. Những tia sáng bình minh và tiếng chim hót buổi sáng đã đánh thức chúng tôi dậy, bắt đầu cho một ngày mới...
Sau khi đi lẫm lũi hàng giờ, chúng tôi tới một rừng đầy chuối. Tôi ngước nhìn lương thực mà Thượng Đế ban cho, đây rồi một buồng chuối chín vàng óng ánh. Tôi vội đặt Anh K. nằm xuống vì cây cao quá, tay không thể với tới được, tôi tìm một cục đá nhọn và ngồi đẽo vào thân cây. Tới lúc chỉ cần xô nhẹ một cái là cây chuối ngã xuống, thì một bầy khỉ không đông lắm, xuất hiện, và chúng bu lại để cướp lấy các trái chuối chín vàng. Không biết là chúng "cướp" của tôi hay chính tôi tới "cướp" của chúng, nhưng chúng còn để lại cho chúng tôi một số trái còn xanh. Tôi vội bẻ lấy và nhét đầy vào hai túi dưới áo bay để làm lương thực dự trữ. Tôi trở lại chỗ Anh K. nằm, chia nhau ăn. Những trái chuối hột vị rất chát và nước suối không thể coi là bữa ăn thịnh soạn nhưng ít nhất cũng giúp chúng tôi no nê và đủ sức tiếp tục lên đường...
Rồi một ngày nữa qua đi, đêm tối lại đến, tôi bắt đầu thấm mệt, lồng ngực tôi ê ẩm và da đã đổi thành màu tím đen. Đêm thứ hai, chúng tôi thiếp đi rất lâu, tới sáng thức dạy thì toàn thân rã rời, nhưng vì sự sống còn, chúng tôi tiếp tục lên đường.
Khoảng 10 giờ sáng, tôi chợt nghe thấy tiếng xe hơi chạy trên sườn núi phía trên. Mừng quá, tôi nói với Anh K. là chúng mình phải leo lên để ra quốc lộ 20. Tôi kiếm một khúc cây dài để leo lên trước và thòng cây xuống để kéo Anh K. lên. Cứ như vậy, trên sườn núi lau sậy mọc cao hơn 2 thước, chúng tôi đã leo lên được một khoảng khá xa, tiếng xe nghe càng gần hơn. Lúc đó mặt trời đã đứng bóng...
Tôi chợt nổi "da gà" vì nghe thấy tiếng động cơ rất quen thuộc!
Đúng rồi! tiếng động cơ H-34. Tôi hét to lên. Chúng tôi nhìn nhau trong lòng đầy xúc động, cùng quay đầu tìm hướng máy bay. Những chiếc trực thăng như những chấm nhỏ trên nền trời bắt đầu xuất hiện rồi từ từ tới gần. Tôi đã có thể nhìn thấy phù hiệu "Thần Chùy" của Phi đoàn và màu cờ của Không lực VNCH. Tôi vội đứng dậy, hăm hở dùng cây phang những ngọn lau chung quanh để lộ ra một khoảng trống, trong khi Anh K. dùng bao nylon làm động tác phản chiếu áng sáng và phất lên để gây sự chú ý của máy bay (vì phi vụ VIP nên chúng tôi đã xem thường không mang theo vũ khí cá nhân và những trang bị mưu sinh thoát hiểm).
Các đồng đội từ trên cao đã nhìn thấy chúng tôi. Một chiếc H-34 làm "low pass" ngang đầu và thả xuống một trái khói ngay gần chỗ chúng tôi, sau đó lắc cánh hướng dẫn xuống dưới thung lũng cách đó không xa, hai chúng tôi trườn lên trên bụi cỏ lau và lăn xuống ngay nơi chiếc H-34 đang "hover" chờ đón.
Ngước lên, tôi nhận ra Anh Hoan, tự Hoan "heo", đang vẫy tay cười và kéo chúng tôi lên, và sau đó người y tá phi hành bắt đầu nhiệm vụ...
Chúng tôi được đưa về Tổng Y Viện Cộng Hòa để săn sóc kỹ lưỡng, Chuẩn Tướng Võ Xuân Lành, Tư Lệnh Phó và Đại Tá Lưu Kim Cương, Không Đoàn Trưởng / Không Đoàn 33 Chiến Thuật, cùng gia đình, thân nhân, bạn bè trong phi đoàn thay phiên nhau tời thăm hỏi.
Tôi tường thuật mọi diễn tiến xày ra, chấm tọa độ vị trí phi cơ bị rớt và đề nghị phải đi tiếp cứu gấp vì các hành khách bị thương rất nặng. Tôi cũng tình nguyện xin đi theo để hướng dẫn vì cảm thấy đó là trách nhiệm của mình và đã được chấp thuận.
Tờ mờ sáng hôm sau, tôi được khiêng ra phi cơ, nằm trên "cáng", có một vị Bác sĩ phi hành đi theo săn sóc. Tới tọa độ phi cơ bị rớt, sương mù vẫn phủ kín, không sao vào được, máy bay phải đáp và "stand by" tại Bảo Lộc. Tới 1 giờ trưa, trời sáng của hơn, chúng tôi mới vào được. Đáng buồn thay, chỉ có hai người còn sống, 8 người kia đã chết...
***
Hai người sống sót là Ông Bác sĩ người Thụy Điển (bị gãy chân, tay) và anh sinh viên con trai Ông Bộ Trưởng. Sau khi máy bay rớt, tôi kiểm soát số hành khách và thấy thiếu mất một người, người ấy chính là anh. Anh bị bất tỉnh nhân sự, nằm lọt trong đuôi phi cơ treo tòng teng trên ngọn cây. Anh sinh viên cho biết một số vị trong phái đoàn chết ngay sau khi tai nạn xảy ra, một số chết vào ngày hôm sau, trong đó có cha anh. Ông đã trối trăng với anh trước khi chết!.
Riêng phóng viên Anh Tử, sau khi tách rời chúng tôi, đã đi dọc theo con suối và sau 36 giờ trong rừng Bảo Lộc, đã ra tới quốc lộ và đón xe về nhà.
Sau đó anh đã viết phóng sự : "36 giờ trong rừng Bảo Lộc" trên báo Chính luận.
Thú thực cho tới giờ này tôi cũng không hiểu tại sao Anh Tử lại tách rời. Anh sợ đi chung với chúng tôi có thể liên lụy khi bị Việt cộng bắt, hay muốn đi một mình cho nhanh hơn? Và vì phải cõng theo một người bị thương... Nhưng dù sao tôi cũng không trách anh này vì anh không phải là đồng đội của chúng tôi, không vướng mắc tâm nguyện "không bỏ anh em, không quên bạn bè" của những người cùng chung màu áo, màu cờ và nghiệp bay bổng.
Được biết, ngay sau khi máy bay chở VIP mất liên lạc, bị báo cáo mất tích, đích thân Đại Tá Lưu Kim Cương, KĐ Trưởng/ KĐ33CT đã tham gia tìm kiếm cấp cứu với Phi đoàn 211.
Sau khi tai nạn xảy ra - tai nạn đầu tiên trong nghiệp bay bổng của mình - tôi cứ thắc mắc nếu hôm đó anh sinh viên không xin đi theo, tức là tổng số người trên phi cơ chỉ có 12 chứ không phải con số 13 "xui xẻo", thì sự việc có khác đi chăng?
Tháng 9 năm đó, tôi tình nguyện ra Phi đoàn 219 Long Mã ở ngoài Đà Nẵng để thử "số mạng". Riêng Anh L.T.K. thì sau phi vụ nói trên đã từ giã nghiệp bay và chuyển ngành.
Cuối cùng vào tháng 4 năm 2002, tôi đã liên lạc được với anh. Hiện anh rất khoẻ mạnh (vẫn đi "cày"), gia đình hạnh phúc và các con đều thành danh cả.
Tôi viết bài này để tặng anh và để nhớ lại những kỷ niệm xưa của một thời bay bổng.
Melbourne/ Victoria/ Úc Châu
Phạm Công Khanh
54 giờ trong rừng Bảo Lộc
Phạm Công Khanh 64 C (Thần Chùy - Long Mã)
Một giấc mơ hãi hùng đến với tôi trong đêm...
Tôi đi lạc giữa rừng núi cao nguyên, sương lạnh và giá rét, người bạn bên cạnh tôi rên xiết vì những vết thương đang hành, anh níu lấy cánh tay tôi và lê từng bước một cách khó khăn. Tôi cũng bị thương nhưng có lẽ nhẹ hơn. Hai người chúng tôi cùng dìu nhau đi trong bóng đêm, cố tìm lối thoát và lẩn tránh kẻ thù...
Một tiếng sấm ngoài trời làm tôi giật mình thức giấc. Bừng mắt dậy, tôi biết đó không phải là một giấc mơ - hay nói một cách chính xác hơn, giấc mơ ấy chính là những gì đã xảy ra trong đời binh nghiệp của tôi 37 năm về trước.
Không hiểu người bạn Lý Thường Kiệt , đã cùng đi với tôi trong khu rừng năm ấy, giờ phiêu bạc nơi đâu? Còn hay mất? Sáng hôm sau, tôi vội vàng lên "net" gửi đi khắp nơi với hy vọng mong manh sẽ nhận được vài tin tức về anh...
Câu chuyện ấy đã được nhà báo Anh Tử thuật lại trên nhất báo Chính Luận trong vòng một tuần lễ với tựa đề;
"36 giờ trong rừng Bảo Lộc".
Hôm nay, tôi thuật lại chuyện này, tai nạn đầu tiên trong nghiệp bay bổng của tôi và chính sác hơn:
"54 giờ trong rừng Bảo Lộc".
* * *
Sau khi mãn khóa trực thăng H-34 tại Fort Rucker, Hoa Kỳ, tháng 6 năm 1966, bốn hoa tiêu trực thăng về trình diện Bộ Tư Lệnh Không Quân. Nguyễn Chính Tâm và tôi PCK bốc thăm về Phi đoàn 211 (Thần Chùy) - Không Đoàn 33 Chiến Thuật, thời gian này Phi đoàn trưởng là Đại Úy Nguyễn Hữu Hậu và Phi đoàn phó là Đại Úy Nguyễn Kim Bông.
Sau một thời gian bay bổng, hành quân đổ bộ, trực tải thương đêm, tôi đã có một số kinh nghiệm chiến trường...
Hôm đó, cũng như mọi ngày, trước khi rời phần sở, tôi lên Phòng hành quân để nhận công tác cho ngày hôm sau, và được biết là phải có mặt sớm để thi hành phi vụ VIP đi Bảo Lộc. Trung Úy Lý Thường Kiệt là trưởng phi cơ, tôi hoa tiêu phó, cùng với Trung Sĩ Lê Ngọc Hồ cơ khí viên phi hành, chở phái đoàn Bộ Xã Hội đi khánh thành Đại Học Nông Lâm Súc tại Bảo Lộc.
Sau khi nhét hai gói Lucky Strike trong túi theo thói quen, tôi tới đúng giờ để nhận công tác. "Check weather" chúng tôi được biết thời tiết tại Bảo Lộc không được tốt lắm. Tiền phi xong, chúng tôi mang phi cơ sang sân VIP nằm bên phi cảng dân sự để đón phái đoàn của Bộ Xã Hội do Ông Nguyễn Văn Học (Bộ trưởng) hướng dẫn. Cùng đi còn có một Bác sĩ cố vấn người Thụy Điển, phóng viên Anh Tử của báo Chính Luận, ngoài ra còn có con trai Ông Bộ trưởng, một sinh viên cũng đi theo. Phi hành đoàn và phái đoàn tổng cộng 13 người!
8 giờ 30 sáng, phi cơ cất cánh, lấy cao độ, trực chỉ Bảo Lộc, qua khỏi Định Quán, lờ mờ bên dưới (đó là điểm check point) trời bắt đầu có sương mù, mây bắt đầu dầy, được báo ở Bảo Lộc thời tiết khả quan hơn, tơi nơi chúng tôi sẽ kiếm "lỗ" chui xuống. Bay trên mây, gió lạnh cao nguyên luồn vào buồng lái, tôi đốt điếu thuốc Lucky, kéo một hơi dài và cảm thấy rất ấm áp, phấn khởi với dự tính một chuyến đi lý thú tại Bảo Lộc, khác với những phi vụ hành quân, tản thương hay bay đêm...
Đang miên man với những ý nghĩ yên lành, bỗng nhiên tiếng động cơ của trực thăng "ho" lên vài tiếng, đánh thức sự cảnh giác của chúng tôi. Đẩy cần "mixture" lên "full", check kỹ lại những đồng hồ phi cụ, máy bay vẫn tiếp tục "ho". Vòng quay của máy (RPM) không được bình thường và phi cơ mất cao độ từ từ...
Chúng tôi lọt vào đám mây, Trung Sĩ Hồ bấm intercom báo cáo tình trạng hành khách đã tỏ ra hơi mất bình tĩnh. Anh L.T.K. bay instrument quẹo lại. lấy hướng trở lại Định Quán, tôi cố theo dõi các đồng hồ và nhìn một màu mây mù xám đặc vây quanh. Lúc đó chúng tôi rất bình tĩnh, nhìn nhau với đôi mắt sáng quắc, sẵn sàng đối phó với mọi bất trắc... Cao độ vẫn mất từ từ, có những lúc tôi cảm thấy tiếng động cơ im lặng hẳn rồi lại nổ trở lại rất nhanh.
Bỗng nhiên một màu xanh thẫm như một tấm màn bao phủ trước mũi phi cơ tới rất gần. Có lẽ lúc đó anh K. không nhìn thấy vì còn đang cặm cụi với những đồng hồ phi cụ. Tôi vội chụp vào cần lái, ấn intercom và hét to lên cho anh K. biết là "NÚI" và dùng động tác "Emergency - Force landing - "Flare" để "Touch down" (một phản xạ chớp nhoáng tự nhiên trong nghề).
Một tiếng ầm dữ dội pha lẫn với tiếng la hét của 13 người cùng với tiếng đổ ngã của cây cối, tiếng gãy nát của 3 cánh quạt và thân phi cơ, xẩy ra trong tích tắc. Lúc đó lồng ngực tôi như bị tức nghẹn vì sức va chạm quá mạnh, chân tay rã rời, ngồi trong tư thế nắm ngang, đầu chúi xuống những ngọn cỏ...
Tôi hít một hơi thật dài để trấn tĩnh. Tiếng người rên xiết, tiếng xăng chảy róc rách và mùi xăng nồng nặc khiến tôi trở nên sáng suốt hơn. Nhìn phía trên bên phải, tôi thấy L.T.K. còn đang kinh hoàng mở mắt nhìn tôi. Tôi quyết định phải rời phi cơ ngay vì sợ phi cơ phát hỏa. Trong vị thế buồng lái nằm ngang về phía bên trái, đầu cắm xuống đất, anh K. nằm trên, thì chỉ còn một lối thoát duy nhất là cửa sổ phía bên phải của Anh K.. Tôi cố gắng lắm mới gỡ được chân của Anh K. bị đè dưới ghế ngồi, sau khi mở seat belt của anh, tôi dùng hết sức đẩy Anh K. chui ra khỏi buồng lái và tôi bò ra sau.
Tôi quan sát thấy một phần đuôi của phi cơ bị treo tòng teng trên một cây cổ thụ. Tôi tiến lại cabin hành khách leo vào thì thấy Trung sĩ Hồ đã tử thương, đầu anh dù đội nón bay nhưng bị sức ép của ghế pilot từ trên dộng xuống, khiến đầu anh bị tụt hẳn vào trong thân người. Tôi còn đang bàng hoàng thương tiếc người đồng đội cùng phi hành đoàn thì tiếng rên xiết đau đớn cùng với giọng nói Tây phương "Au secour" đã khiến tôi sực tỉnh, đó là Ông Bác sĩ người Thụy Điển.
Tôi quay đầu lại, một cảnh tượng thật hãi hùng, máu đỏ lênh láng trên sàn phi cơ, tôi tiến lại từng người để coi sóc họ, thấy tất cả bị thương rất nặng và đang rên xiết. Bỗng anh phóng viên Anh Tử chợt ngồi dậy, hoảng hốt nắm lấy tay tôi rồi dáo dác tìm kiếm máy ảnh và đồ nghề của anh nhưng không thấy. Tôi nhủ thầm: thật may mắn, còn một người không bị thương!
Hai chúng tôi kiểm lại số người: chỉ có 12, thiếu mất anh sinh viên con Ông Bộ Trưởng, có lẽ anh đã bị văng đi xa. Tôi và Anh Tử chia nhau đi tìm kiếm nhưng không thấy. Trở lại thì chân Anh K. đã sưng phù lên, có lẽ bị gãy xương. Chúng tôi và Anh Tử bàn tính, mở bản đồ cố gắng chấm tọa độ và phương hướng.
Tôi quyết định đi một mình xuống sườn núi, theo con suối nhỏ dẫn tới quốc lộ 20 (Sàigòn -Bảo Lộc - Đà Lạt) trên đèo Blao, vùng Maragui, tìm phương tiện thông báo xin cứu cấp và chỉ định Anh tử ở lại để coi sóc anh L.T.K. và những người bị thương. Nhưng cuối cùng Anh K. và Anh Tử nhất định đòi đi theo tôi.
Tôi trở lại băng bó cho các vị trong phái đoàn và căn dặn ở yên tại chỗ, tôi sẽ cố gắng đi kiếm cách liên lạc thật nhanh với các toán cấp cứu.
Lúc 3 chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình là vào khoảng 11 giờ trưa cùng ngày. Xuống hết sườn núi quả nhiên chúng tôi gặp con suối nhỏ, liền đi theo với hy vọng sẽ sớm ra đường lộ. Đi theo con suối còn có những lợi điểm, thứ nhất có nước uống (vì thiếu ăn không sao nhưng thiếu nước là cả một vấn đề); thứ nhì đi dưới suối sẽ không để lại dấu vết gì.
Chúng tôi di chuyển rất chậm chạp vì Anh K. bị thương chân, đi rất khó khăn. Theo phương thức cứ một người đi nhanh mở đường, khoảng 20 phút thì dừng lại, ngồi đợi người kia dìu hoặc cõng Anh K. tới. Cứ như thế thay phiên nhau, nếu gặp trở ngại thì quay lại thông báo kịp thời.
Trên đường di chuyển, khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, chúng tôi nhìn thấy vài lon "Ration C" đã khui, không biết của toán quân bạn hành quân hay của du kích Việt cộng?
Anh Tử thận trọng đưa ra ý kiến:
-Các anh nên lột bỏ lon là đi thì hơn. Nếu không Việt cộng mà thấy thì ăn nói làm sao?
Nghe câu nói của anh ta trong lòng tôi vừa thấy khôi hài vừa đáng buồn!
Tôi và Anh K. chỉ cười rồi tiếp tục đi. Cắm cúi đi cả tiếng đồng hồ, khi trời nhá nhem tối, chúng tôi không thấy Anh Tử đâu nữa. Tôi hoang mang lo ngại, không biết anh có lọt vào tay địch hay làm mồi cho thú dữ không? Hay là anh tự ý tách riêng vì sợ đi chung với hai thằng phi công sẽ bị liên lụy?!
Nhưng dù là thế nào đi nữa, chúng tôi cũng phải cẩn thận hơn. Tôi không dám đi dưới suối nữa mà cõng Anh K. lên triền núi, đi dọc theo bờ suối khoảng 50 mét. Lúc này thì chân Anh K. đã sưng to, anh không đi được nữa, chỉ còn cách là tôi phải cõng anh mà thôi.
Trời tối đen như mực, giá lạnh của vùng núi xoáy vào người. Tôi tìm một nơi tương đối an toàn trong bụi rậm. Thời tiết núi rừng cao nguyên càng về đêm càng lạnh, hai hàm răng chúng tôi đánh vào nhau lạch cạch không ngừng. Tôi xé tấm nylon bọc bản đồ, tuy không được lớn cho lắm nhưng cũng đủ cho hai cái đầu chui vào. Với mục đích tiết kiệm, tôi chỉ đốt một điếu Lucky Strike cho cả hai hút chung. Khói thuốc đi sâu vào lồng ngực và tỏa ra trong thể tích bé nhỏ của bao nylon với hai cái đầu đã sưởi ấm chúng tôi phần nào.
Trong cơn đau, Anh Kiệt "nghiến" (anh có biệt danh là "Nghiến" trong khoá 62KQ) ôm lấy tôi thều thào:
-Đừng bỏ tôi K. nhé, con trai tôi mới đầy tháng hôm qua, nó cần phải có cha!...
Tôi nhủ thầm trong bụng để tự trấn an mình: Không thể có chuyện đó. Chúng ta nhất định sống để trở về!
Thế rồi, dù lạnh buốt chúng tôi cũng ngủ thiếp đi có lẽ vì quá mệt nhọc và vì đói. Rồi đêm hãi hùng cũng qua đi. Những tia sáng bình minh và tiếng chim hót buổi sáng đã đánh thức chúng tôi dậy, bắt đầu cho một ngày mới...
Sau khi đi lẫm lũi hàng giờ, chúng tôi tới một rừng đầy chuối. Tôi ngước nhìn lương thực mà Thượng Đế ban cho, đây rồi một buồng chuối chín vàng óng ánh. Tôi vội đặt Anh K. nằm xuống vì cây cao quá, tay không thể với tới được, tôi tìm một cục đá nhọn và ngồi đẽo vào thân cây. Tới lúc chỉ cần xô nhẹ một cái là cây chuối ngã xuống, thì một bầy khỉ không đông lắm, xuất hiện, và chúng bu lại để cướp lấy các trái chuối chín vàng. Không biết là chúng "cướp" của tôi hay chính tôi tới "cướp" của chúng, nhưng chúng còn để lại cho chúng tôi một số trái còn xanh. Tôi vội bẻ lấy và nhét đầy vào hai túi dưới áo bay để làm lương thực dự trữ. Tôi trở lại chỗ Anh K. nằm, chia nhau ăn. Những trái chuối hột vị rất chát và nước suối không thể coi là bữa ăn thịnh soạn nhưng ít nhất cũng giúp chúng tôi no nê và đủ sức tiếp tục lên đường...
Rồi một ngày nữa qua đi, đêm tối lại đến, tôi bắt đầu thấm mệt, lồng ngực tôi ê ẩm và da đã đổi thành màu tím đen. Đêm thứ hai, chúng tôi thiếp đi rất lâu, tới sáng thức dạy thì toàn thân rã rời, nhưng vì sự sống còn, chúng tôi tiếp tục lên đường.
Khoảng 10 giờ sáng, tôi chợt nghe thấy tiếng xe hơi chạy trên sườn núi phía trên. Mừng quá, tôi nói với Anh K. là chúng mình phải leo lên để ra quốc lộ 20. Tôi kiếm một khúc cây dài để leo lên trước và thòng cây xuống để kéo Anh K. lên. Cứ như vậy, trên sườn núi lau sậy mọc cao hơn 2 thước, chúng tôi đã leo lên được một khoảng khá xa, tiếng xe nghe càng gần hơn. Lúc đó mặt trời đã đứng bóng...
Tôi chợt nổi "da gà" vì nghe thấy tiếng động cơ rất quen thuộc!
Đúng rồi! tiếng động cơ H-34. Tôi hét to lên. Chúng tôi nhìn nhau trong lòng đầy xúc động, cùng quay đầu tìm hướng máy bay. Những chiếc trực thăng như những chấm nhỏ trên nền trời bắt đầu xuất hiện rồi từ từ tới gần. Tôi đã có thể nhìn thấy phù hiệu "Thần Chùy" của Phi đoàn và màu cờ của Không lực VNCH. Tôi vội đứng dậy, hăm hở dùng cây phang những ngọn lau chung quanh để lộ ra một khoảng trống, trong khi Anh K. dùng bao nylon làm động tác phản chiếu áng sáng và phất lên để gây sự chú ý của máy bay (vì phi vụ VIP nên chúng tôi đã xem thường không mang theo vũ khí cá nhân và những trang bị mưu sinh thoát hiểm).
Các đồng đội từ trên cao đã nhìn thấy chúng tôi. Một chiếc H-34 làm "low pass" ngang đầu và thả xuống một trái khói ngay gần chỗ chúng tôi, sau đó lắc cánh hướng dẫn xuống dưới thung lũng cách đó không xa, hai chúng tôi trườn lên trên bụi cỏ lau và lăn xuống ngay nơi chiếc H-34 đang "hover" chờ đón.
Ngước lên, tôi nhận ra Anh Hoan, tự Hoan "heo", đang vẫy tay cười và kéo chúng tôi lên, và sau đó người y tá phi hành bắt đầu nhiệm vụ...
Chúng tôi được đưa về Tổng Y Viện Cộng Hòa để săn sóc kỹ lưỡng, Chuẩn Tướng Võ Xuân Lành, Tư Lệnh Phó và Đại Tá Lưu Kim Cương, Không Đoàn Trưởng / Không Đoàn 33 Chiến Thuật, cùng gia đình, thân nhân, bạn bè trong phi đoàn thay phiên nhau tời thăm hỏi.
Tôi tường thuật mọi diễn tiến xày ra, chấm tọa độ vị trí phi cơ bị rớt và đề nghị phải đi tiếp cứu gấp vì các hành khách bị thương rất nặng. Tôi cũng tình nguyện xin đi theo để hướng dẫn vì cảm thấy đó là trách nhiệm của mình và đã được chấp thuận.
Tờ mờ sáng hôm sau, tôi được khiêng ra phi cơ, nằm trên "cáng", có một vị Bác sĩ phi hành đi theo săn sóc. Tới tọa độ phi cơ bị rớt, sương mù vẫn phủ kín, không sao vào được, máy bay phải đáp và "stand by" tại Bảo Lộc. Tới 1 giờ trưa, trời sáng của hơn, chúng tôi mới vào được. Đáng buồn thay, chỉ có hai người còn sống, 8 người kia đã chết...
***
Hai người sống sót là Ông Bác sĩ người Thụy Điển (bị gãy chân, tay) và anh sinh viên con trai Ông Bộ Trưởng. Sau khi máy bay rớt, tôi kiểm soát số hành khách và thấy thiếu mất một người, người ấy chính là anh. Anh bị bất tỉnh nhân sự, nằm lọt trong đuôi phi cơ treo tòng teng trên ngọn cây. Anh sinh viên cho biết một số vị trong phái đoàn chết ngay sau khi tai nạn xảy ra, một số chết vào ngày hôm sau, trong đó có cha anh. Ông đã trối trăng với anh trước khi chết!.
Riêng phóng viên Anh Tử, sau khi tách rời chúng tôi, đã đi dọc theo con suối và sau 36 giờ trong rừng Bảo Lộc, đã ra tới quốc lộ và đón xe về nhà.
Sau đó anh đã viết phóng sự : "36 giờ trong rừng Bảo Lộc" trên báo Chính luận.
Thú thực cho tới giờ này tôi cũng không hiểu tại sao Anh Tử lại tách rời. Anh sợ đi chung với chúng tôi có thể liên lụy khi bị Việt cộng bắt, hay muốn đi một mình cho nhanh hơn? Và vì phải cõng theo một người bị thương... Nhưng dù sao tôi cũng không trách anh này vì anh không phải là đồng đội của chúng tôi, không vướng mắc tâm nguyện "không bỏ anh em, không quên bạn bè" của những người cùng chung màu áo, màu cờ và nghiệp bay bổng.
Được biết, ngay sau khi máy bay chở VIP mất liên lạc, bị báo cáo mất tích, đích thân Đại Tá Lưu Kim Cương, KĐ Trưởng/ KĐ33CT đã tham gia tìm kiếm cấp cứu với Phi đoàn 211.
Sau khi tai nạn xảy ra - tai nạn đầu tiên trong nghiệp bay bổng của mình - tôi cứ thắc mắc nếu hôm đó anh sinh viên không xin đi theo, tức là tổng số người trên phi cơ chỉ có 12 chứ không phải con số 13 "xui xẻo", thì sự việc có khác đi chăng?
Tháng 9 năm đó, tôi tình nguyện ra Phi đoàn 219 Long Mã ở ngoài Đà Nẵng để thử "số mạng". Riêng Anh L.T.K. thì sau phi vụ nói trên đã từ giã nghiệp bay và chuyển ngành.
Cuối cùng vào tháng 4 năm 2002, tôi đã liên lạc được với anh. Hiện anh rất khoẻ mạnh (vẫn đi "cày"), gia đình hạnh phúc và các con đều thành danh cả.
Tôi viết bài này để tặng anh và để nhớ lại những kỷ niệm xưa của một thời bay bổng.
Melbourne/ Victoria/ Úc Châu
Phạm Công Khanh
Tuesday, January 5, 2010
Lòng yêu nước
Lòng yêu nước
Phạm V. H.
Có một dạo, tôi hồn nhiên tán tụng những thành tựu khoa học của thế giới văn minh.Tôi say sưa ca ngợi tiến bộ xã hội ở các nước Âu‒Mỹ.
Tôi không che giấu nỗi niềm khao khát đặt chân đến những miền đất được mệnh danh là xứ sở Tự Do ấy...Không ngờ, có người bóng gió, "Người Việt Nam phải biết yêu nước Việt Nam!"
Tôi hơi bực mình nên đốp lại liền, "Thế nào gọi là yêu nước?"Tịt. Không trả lời được! Chắc người nọ không trơ trẽn đến nỗi nêu lên định nghĩa rằng, yêu nước là PHẢI ca ngợi đất nước Việt Nam tươi đẹp giàu mạnh, nhân dân Việt Nam anh hùng...
Rồi một ngày tôi tỏ ý bất mãn vì sao người Việt học toán rất giỏi mà nền công nghiệp phần mềm í ẹ quá!
Lại phải nghe cái luận điệu tương tự ấy, lần này của một kẻ nhỏ tuổi hơn mình.
Tôi nhẹ nhàng hơn lần trước:‒ Ồ vậy hả? Chú em chắc là người giàu lòng yêu nước chứ không đến nỗi như đám nhóc bây giờ thuộc phim sử Tàu hơn sử Việt. Anh ra trường lâu quá, không nhớ rõ nữa, chú mày thử kể sơ sơ các triều đại chính của Việt Nam từ xưa đến triều Nguyễn xem!
Ú ớ. Tôi thêm một câu hỏi phụ, "Thế Lê Lợi là ở thời Tiền Lê hay Hậu Lê?"
Tắc tị luôn. Tôi cười, "Thế mà cũng dám lên lớp người ta về lòng yêu nước!"
Tất nhiên là sau đó tôi cũng kể sơ lược từ Trưng, Triệu, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Trịnh‒Nguyễn... chứ không phải chơi trò "tay không bắt giặc" ‒ đem chuyện mình không biết đi hỏi đố người khác!
Sở dĩ ngày khai bút đầu năm mới này lại đi kể những câu chuyện cũ mèm ấy là vì tôi nhận thấy rằng, việc lạm dụng hai chữ "yêu nước" ngày càng trở nên trầm trọng. Để bóp nghẹt tiếng nói đối lập, người ta sẵn sàng chụp cho người bất đồng chính kiến những cái mũ nặng khủng khiếp, nào là "phản quốc", nào là "lật đổ chính quyền nhân dân"...
Lòng yêu nước - Tại sao bạn yêu đất nước này?
Bạn đừng vội đọc tiếp, mà hãy thử trả lời câu hỏi trên theo cách đơn giản nhất. Có thể viết nhanh ra giấy bằng những cái gạnh đầu dòng, hoặc gõ tốc ký vào Notepad, hay chỉ cần nghĩ thoáng qua trong đầu ý chính câu trả lời là được.
Tôi tin rằng mỗi người sẽ có một câu trả lời không giống nhau.
Theo một vài khảo sát nhanh trước đây, phần lớn nêu nguyên nhân: Việt Nam là đất nước giàu đẹp có rừng vàng biển bạc và dân tộc Việt Nam có truyền thống chống ngoại xâm anh hùng.
Có ý kiến nói đơn giản làm con người thì phải yêu đất nước mình thôi. Có người không lý giải nguyên do nhưng khẳng định ai cũng cần phải yêu nước hết.
Nhận thức khác nhau là điều bình thường, và tôi cũng có nhận thức của riêng mình. Xin nhấn mạnh rằng, đây là tôi muốn chia sẻ nhận thức cá nhân để bạn cùng tham khảo, chứ không hề có ý gọi nó là một định nghĩa thế nào là lòng yêu nước:
‒ Tôi yêu đất nước này vì bản thân tôi là một phần trong đó, vậy thôi.
Ông bà cha mẹ tổ tiên tôi đã sinh sống và lớn lên ở đây, từng miếng đất, thửa ruộng, dòng sông... đều có một phần trong việc kiến tạo nên những tế bào của cơ thể tôi hiện tại. Vì thế, xin đừng có ý nghĩ rằng yêu nước là một cái gì đó cao siêu vời vợi, hay yêu nước là đặc quyền chỉ dành riêng cho một nhóm người, một đảng phái nào đó... Yêu nước, trước hết đó là yêu chính bản thân bạn.
Sự thật là như vậy, xin thưa nhỏ (nói bằng tiếng Việt rất khẽ thôi nhé) với các bạn rằng: Việt Nam chưa phải là đất nước giàu đẹp nhất trên thế giới này đâu, và dân tộc Việt Nam cũng chưa hẳn là dân tộc anh hùng nhất trên quả địa cầu này!
Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không yêu mến đất nước này, đúng không?Làm sao thể hiện lòng yêu nước?
Một số người thường gán mặc nhiên lòng yêu nước với một hành động hy sinh anh dũng trên chiến trường.
Thật ra, lòng yêu nước được thể hiện bằng nhiều hình thức trên một phạm vi rất rộng. Không nhất thiết phải đổ máu hy sinh, cầm gươm ôm súng xông pha nơi chiến địa mới thể hiện được lòng yêu nước.
Tổ Quốc bao gồm phần lãnh thổ hữu hình, con người và tất cả những giá trị vô hình gắn liền trong suốt chiều dài lịch sử. Như thế, lòng yêu nước bao gồm cả yếu tố thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai.
Chúng ta đã yêu nước mãnh liệt bằng việc ca ngợi truyền thống chống ngoại xâm vẻ vang trong quá khứ!
Chúng đang yêu nước hối hả bằng cách ra sức làm giàu với biện minh "Dân giàu nước mạnh" ở hiện tại!
Vậy chúng ta thử hình dung đất nước này tương lai sẽ ra sao? Các thế hệ mai sau sẽ phải trả món vay nợ từ các ngân hàng khắp nơi trên thế giới là bao nhiêu? Môi trường sống đến lúc đó bị hủy hoại tới mức nào?
Trong thời buổi đạo đức xã hội suy đồi, nghề kinh doanh chức quyền mang lại mối lợi kếch xù, thì việc làm giàu cá nhân có bảo đảm cho đất nước hùng mạnh được hay không?
Xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, chúng ta hãnh diện về truyền thống chống ngoại xâm vẻ vang của ông cha, đó là điều không cần bàn cãi. Thế nhưng, đã mấy ai chịu đặt câu hỏi phản biện cho mặt trái của lớp son kiêu hãnh ấy:
‒ Vì sao chúng bị xâm lăng, vì sao chúng ta bị đô hộ?
Vì thế nước yếu nên mới bị như vậy. Cái chu kỳ "bị đô hộ ‒ giành độc lập ‒ bị đô hộ ‒ giành độc lập..." cứ tái diễn trong hơn 4000 năm lịch sử không đáng làm cho chúng kinh hãi hay sao?
Điều ấy chứng tỏ khiếm khuyết cố hữu của người Việt ta từ xưa đến nay là không chịu tận dụng cơ hội quý báu lúc thời bình để phát triển sức mạnh quốc gia.
Điều ấy đang được lặp lại suốt 35 năm qua!
Chúng ta đã ngủ quá say sưa trong giấc mộng anh hùng đã "chiến thắng vẻ vang hai đế quốc to"!
Giấc mơ ấy lại được tô hồng và đóng khung trong cái ảo giác của thiên đường Cộng sản Chủ nghĩa.
Cho đến khi bị Liên Xô và các nước Đông Âu dội cho mấy gáo nước lạnh vào những năm 1989‒1991, chúng ta vẫn không chịu thức tỉnh. Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đưa toàn dân ta ngủ nướng với một giấc mơ mới: "Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN"!
Tác phẩm Nhật bản (400 năm) mô tả "Lòng yêu nước" XHCN Việt Nam
Nguồn: thethreemonkeys. com
Tư bản đỏ Việt Nam thời nay đã làm giàu như thế nào?
Có phải dựa vào tài năng như tỷ phú Bill Gates hay không?
Bao giờ đất nước ta tiến lên CNXH? Hay thực chất đó chỉ là cái bình phong che chắn hành vi trục lợi của một nhóm người?
Chẳng lẽ không có ai thể hiện tinh thần yêu nước trong giai đoạn nguy cấp này hay sao?
Chắc chắn là có, nhưng làm thế nào để nhận ra họ không phải là điều dễ!
Ai là những người yêu nước hiện nay?
Vị tổng thống da màu đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thành công với chiến dịch tranh cử: Chúng ta cần thay đổi (Change We Need). Một quốc gia dẫn đầu thế giới trên nhiều lãnh vực lại ý thức sâu sắc vai trò của việc phải thay đổi, phải cải cách. Đơn giản là họ nhận thức được tốc độ phát triển kinh hồn của kỷ nguyên tri thức.
Chúng ta cũng có người đã ý thức được điều ấy. Tuy nhiên, họ nhận ra mình chỉ là thiểu số. Họ bèn tập hợp nhau lại, thành từng nhóm, tuy tôn chỉ và hành động có chút khác biệt, nhưng tất cả đều chung một mục tiêu là đưa con thuyền Việt Nam chệch khỏi lộ trình hiện tại. Đó là lộ trình đi đến bờ vực của xã hội độc tài, phi nhân quyền.
Vậy họ đâu cả rồi, là những ai vậy?
Chua xót làm sao, những người nổi bật nhất trong số họ đang ở bên kia chấn song của nhà tù. Kẻ đã bị kết án, người sắp bị đem ra xét xử với tội danh "Âm mưu lật đổ chính quyền".
Những lời kêu gọi cải cách ôn hòa chỉ bằng con chữ và lời nói lại có thể đe dọa đến an ninh quốc gia hay sao? Điều ấy chứng tỏ nền an ninh quốc gia này được xây dựng trên căn cứ của bạo lực và không đặt điểm tựa vào lòng nhân.
Quy kết tội danh "lật đổ chính quyền" với vật chứng là ngòi bút, bàn phím hay chiếc microphone khác nào thừa nhận thể chế này là kẻ thù của lẽ phải, là hiện thân của bạo lực.
Không một ai muốn sống trong xã hội thiếu vắng lòng nhân và công lý đến như vậy!
Nếu được đứng vào vị trí của người biện hộ trước tòa, chúng ta có ngần ngại để chìa cánh tay khẳng khái về phía họ, và dõng dạc:
‒ Tôi tin rằng những vị đứng sau vành móng ngựa kia hoàn toàn vô tội, họ là những người yêu nước!
Phạm V. H
Phạm V. H.
Có một dạo, tôi hồn nhiên tán tụng những thành tựu khoa học của thế giới văn minh.Tôi say sưa ca ngợi tiến bộ xã hội ở các nước Âu‒Mỹ.
Tôi không che giấu nỗi niềm khao khát đặt chân đến những miền đất được mệnh danh là xứ sở Tự Do ấy...Không ngờ, có người bóng gió, "Người Việt Nam phải biết yêu nước Việt Nam!"
Tôi hơi bực mình nên đốp lại liền, "Thế nào gọi là yêu nước?"Tịt. Không trả lời được! Chắc người nọ không trơ trẽn đến nỗi nêu lên định nghĩa rằng, yêu nước là PHẢI ca ngợi đất nước Việt Nam tươi đẹp giàu mạnh, nhân dân Việt Nam anh hùng...
Rồi một ngày tôi tỏ ý bất mãn vì sao người Việt học toán rất giỏi mà nền công nghiệp phần mềm í ẹ quá!
Lại phải nghe cái luận điệu tương tự ấy, lần này của một kẻ nhỏ tuổi hơn mình.
Tôi nhẹ nhàng hơn lần trước:‒ Ồ vậy hả? Chú em chắc là người giàu lòng yêu nước chứ không đến nỗi như đám nhóc bây giờ thuộc phim sử Tàu hơn sử Việt. Anh ra trường lâu quá, không nhớ rõ nữa, chú mày thử kể sơ sơ các triều đại chính của Việt Nam từ xưa đến triều Nguyễn xem!
Ú ớ. Tôi thêm một câu hỏi phụ, "Thế Lê Lợi là ở thời Tiền Lê hay Hậu Lê?"
Tắc tị luôn. Tôi cười, "Thế mà cũng dám lên lớp người ta về lòng yêu nước!"
Tất nhiên là sau đó tôi cũng kể sơ lược từ Trưng, Triệu, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Trịnh‒Nguyễn... chứ không phải chơi trò "tay không bắt giặc" ‒ đem chuyện mình không biết đi hỏi đố người khác!
Sở dĩ ngày khai bút đầu năm mới này lại đi kể những câu chuyện cũ mèm ấy là vì tôi nhận thấy rằng, việc lạm dụng hai chữ "yêu nước" ngày càng trở nên trầm trọng. Để bóp nghẹt tiếng nói đối lập, người ta sẵn sàng chụp cho người bất đồng chính kiến những cái mũ nặng khủng khiếp, nào là "phản quốc", nào là "lật đổ chính quyền nhân dân"...
Lòng yêu nước - Tại sao bạn yêu đất nước này?
Bạn đừng vội đọc tiếp, mà hãy thử trả lời câu hỏi trên theo cách đơn giản nhất. Có thể viết nhanh ra giấy bằng những cái gạnh đầu dòng, hoặc gõ tốc ký vào Notepad, hay chỉ cần nghĩ thoáng qua trong đầu ý chính câu trả lời là được.
Tôi tin rằng mỗi người sẽ có một câu trả lời không giống nhau.
Theo một vài khảo sát nhanh trước đây, phần lớn nêu nguyên nhân: Việt Nam là đất nước giàu đẹp có rừng vàng biển bạc và dân tộc Việt Nam có truyền thống chống ngoại xâm anh hùng.
Có ý kiến nói đơn giản làm con người thì phải yêu đất nước mình thôi. Có người không lý giải nguyên do nhưng khẳng định ai cũng cần phải yêu nước hết.
Nhận thức khác nhau là điều bình thường, và tôi cũng có nhận thức của riêng mình. Xin nhấn mạnh rằng, đây là tôi muốn chia sẻ nhận thức cá nhân để bạn cùng tham khảo, chứ không hề có ý gọi nó là một định nghĩa thế nào là lòng yêu nước:
‒ Tôi yêu đất nước này vì bản thân tôi là một phần trong đó, vậy thôi.
Ông bà cha mẹ tổ tiên tôi đã sinh sống và lớn lên ở đây, từng miếng đất, thửa ruộng, dòng sông... đều có một phần trong việc kiến tạo nên những tế bào của cơ thể tôi hiện tại. Vì thế, xin đừng có ý nghĩ rằng yêu nước là một cái gì đó cao siêu vời vợi, hay yêu nước là đặc quyền chỉ dành riêng cho một nhóm người, một đảng phái nào đó... Yêu nước, trước hết đó là yêu chính bản thân bạn.
Sự thật là như vậy, xin thưa nhỏ (nói bằng tiếng Việt rất khẽ thôi nhé) với các bạn rằng: Việt Nam chưa phải là đất nước giàu đẹp nhất trên thế giới này đâu, và dân tộc Việt Nam cũng chưa hẳn là dân tộc anh hùng nhất trên quả địa cầu này!
Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không yêu mến đất nước này, đúng không?Làm sao thể hiện lòng yêu nước?
Một số người thường gán mặc nhiên lòng yêu nước với một hành động hy sinh anh dũng trên chiến trường.
Thật ra, lòng yêu nước được thể hiện bằng nhiều hình thức trên một phạm vi rất rộng. Không nhất thiết phải đổ máu hy sinh, cầm gươm ôm súng xông pha nơi chiến địa mới thể hiện được lòng yêu nước.
Tổ Quốc bao gồm phần lãnh thổ hữu hình, con người và tất cả những giá trị vô hình gắn liền trong suốt chiều dài lịch sử. Như thế, lòng yêu nước bao gồm cả yếu tố thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai.
Chúng ta đã yêu nước mãnh liệt bằng việc ca ngợi truyền thống chống ngoại xâm vẻ vang trong quá khứ!
Chúng đang yêu nước hối hả bằng cách ra sức làm giàu với biện minh "Dân giàu nước mạnh" ở hiện tại!
Vậy chúng ta thử hình dung đất nước này tương lai sẽ ra sao? Các thế hệ mai sau sẽ phải trả món vay nợ từ các ngân hàng khắp nơi trên thế giới là bao nhiêu? Môi trường sống đến lúc đó bị hủy hoại tới mức nào?
Trong thời buổi đạo đức xã hội suy đồi, nghề kinh doanh chức quyền mang lại mối lợi kếch xù, thì việc làm giàu cá nhân có bảo đảm cho đất nước hùng mạnh được hay không?
Xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, chúng ta hãnh diện về truyền thống chống ngoại xâm vẻ vang của ông cha, đó là điều không cần bàn cãi. Thế nhưng, đã mấy ai chịu đặt câu hỏi phản biện cho mặt trái của lớp son kiêu hãnh ấy:
‒ Vì sao chúng bị xâm lăng, vì sao chúng ta bị đô hộ?
Vì thế nước yếu nên mới bị như vậy. Cái chu kỳ "bị đô hộ ‒ giành độc lập ‒ bị đô hộ ‒ giành độc lập..." cứ tái diễn trong hơn 4000 năm lịch sử không đáng làm cho chúng kinh hãi hay sao?
Điều ấy chứng tỏ khiếm khuyết cố hữu của người Việt ta từ xưa đến nay là không chịu tận dụng cơ hội quý báu lúc thời bình để phát triển sức mạnh quốc gia.
Điều ấy đang được lặp lại suốt 35 năm qua!
Chúng ta đã ngủ quá say sưa trong giấc mộng anh hùng đã "chiến thắng vẻ vang hai đế quốc to"!
Giấc mơ ấy lại được tô hồng và đóng khung trong cái ảo giác của thiên đường Cộng sản Chủ nghĩa.
Cho đến khi bị Liên Xô và các nước Đông Âu dội cho mấy gáo nước lạnh vào những năm 1989‒1991, chúng ta vẫn không chịu thức tỉnh. Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đưa toàn dân ta ngủ nướng với một giấc mơ mới: "Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN"!
Tác phẩm Nhật bản (400 năm) mô tả "Lòng yêu nước" XHCN Việt Nam
Nguồn: thethreemonkeys. com
Tư bản đỏ Việt Nam thời nay đã làm giàu như thế nào?
Có phải dựa vào tài năng như tỷ phú Bill Gates hay không?
Bao giờ đất nước ta tiến lên CNXH? Hay thực chất đó chỉ là cái bình phong che chắn hành vi trục lợi của một nhóm người?
Chẳng lẽ không có ai thể hiện tinh thần yêu nước trong giai đoạn nguy cấp này hay sao?
Chắc chắn là có, nhưng làm thế nào để nhận ra họ không phải là điều dễ!
Ai là những người yêu nước hiện nay?
Vị tổng thống da màu đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thành công với chiến dịch tranh cử: Chúng ta cần thay đổi (Change We Need). Một quốc gia dẫn đầu thế giới trên nhiều lãnh vực lại ý thức sâu sắc vai trò của việc phải thay đổi, phải cải cách. Đơn giản là họ nhận thức được tốc độ phát triển kinh hồn của kỷ nguyên tri thức.
Chúng ta cũng có người đã ý thức được điều ấy. Tuy nhiên, họ nhận ra mình chỉ là thiểu số. Họ bèn tập hợp nhau lại, thành từng nhóm, tuy tôn chỉ và hành động có chút khác biệt, nhưng tất cả đều chung một mục tiêu là đưa con thuyền Việt Nam chệch khỏi lộ trình hiện tại. Đó là lộ trình đi đến bờ vực của xã hội độc tài, phi nhân quyền.
Vậy họ đâu cả rồi, là những ai vậy?
Chua xót làm sao, những người nổi bật nhất trong số họ đang ở bên kia chấn song của nhà tù. Kẻ đã bị kết án, người sắp bị đem ra xét xử với tội danh "Âm mưu lật đổ chính quyền".
Những lời kêu gọi cải cách ôn hòa chỉ bằng con chữ và lời nói lại có thể đe dọa đến an ninh quốc gia hay sao? Điều ấy chứng tỏ nền an ninh quốc gia này được xây dựng trên căn cứ của bạo lực và không đặt điểm tựa vào lòng nhân.
Quy kết tội danh "lật đổ chính quyền" với vật chứng là ngòi bút, bàn phím hay chiếc microphone khác nào thừa nhận thể chế này là kẻ thù của lẽ phải, là hiện thân của bạo lực.
Không một ai muốn sống trong xã hội thiếu vắng lòng nhân và công lý đến như vậy!
Nếu được đứng vào vị trí của người biện hộ trước tòa, chúng ta có ngần ngại để chìa cánh tay khẳng khái về phía họ, và dõng dạc:
‒ Tôi tin rằng những vị đứng sau vành móng ngựa kia hoàn toàn vô tội, họ là những người yêu nước!
Phạm V. H
Subscribe to:
Posts (Atom)